Thursday, July 6, 2017

Đò chưa sang

Đò chưa sang

VNQĐ chủ nhật 25/6/2017
 LÊ HÀ NGÂN
Trưa tĩnh lặng, con thuyền gà gật bên mép sóng bỗng choàng dậy. Đám khách lũ lượt gọi đò, nói cười râm ran cả khúc sông.

Gọi là đò cũng được mà gọi là phà cũng chẳng sai, bởi nó chỉ là con thuyền sắt cũ kĩ ọp ẹp gắn máy nổ. Mỗi khi nổ máy thuyền, lái đò phải lấy sức quấn sợi dây vào cần khởi động, kéo thật mạnh, tiếng động cơ ì ạch như anh thợ bễ lò rèn phì phạch một hồi rồi mới uể oải cất lên. Con thuyền được hàn thêm mặt sàn sắt rộng có thể chứa mươi xe máy và một xe hơi. Khách qua sông nhìn đò thế này ai cũng ngần ngại. Điều đặc biệt là gã máy trưởng bao giờ cầm vô lăng cũng ngước mắt nhìn trời rồi cười một cách khó hiểu. Cái cười của gã ngu ngơ như bị ma làm. Chủ thuyền mới dùng sơn chống gỉ màu đỏ, quét toàn bộ con thuyền, chỉ chừa lại mắt thuyền màu đen, lập lờ trong màn nước bạc. Ánh mắt thuyền dò hỏi, ngước lên thách thức những con sóng hung dữ.

Lái đò dõi mắt nhìn khách, lẩm nhẩm tính, đủng đỉnh thu tiền. Khách chưa đông nên cũng chưa vội nổ máy, ráng chờ thêm khách cho bõ chuyến sang sông. Tiếng chửi cất lên chói gắt:
- Sư thằng mất dạy! Vắt cổ chày ra nước. Nó hành mình suốt đêm mà được vài đồng tiền rách. Thế mà cũng mang tiếng đại gia.
Câu ấy từ miệng một mắt xanh mỏ đỏ, thấp đậm nói với một mắt nhỏ xíu xăm lông mày cười toe toét.

Kính trắng đạo mạo tóc chải vật bóng loáng, khuôn mặt nghiêm như hiền triết, lơ đãng nhìn vạt bèo nở hoa tím đang bị sóng duềnh trên mặt nước. Vài cánh hoa tơi tả, lẫn chân hương lênh đênh trên sóng. Tiếng mõ gõ đều đều nơi tòa cổ miếu ven sông vọng xuống. Người đàn bà chở lồng ngan nặng bỗng bâng quơ:
- Hôm nay mười rằm nhỉ?
Bà cụ ngồi gần bánh lái đò tay lần tràng hạt buột miệng:
- Vâng hôm nay rằm.
 Nhận ra khách quen và chiếc xe hơi đắt tiền thường sang sông, lái đò đon đả:
- Anh hôm nay về quê ạ?
- Vâng! Tôi về giỗ đầu bà cụ. Nhanh quá! Người sống kể ngày, người chết kể năm cô ạ!

 Không muốn bắt thêm chuyện, kính trắng vẫn lơ đãng nhìn đám bèo.
 Kính đen mở cửa xe, hất hàm vào trong:
- Xuống đi em! Xuống mà nhìn sông nước cho thoáng.
- Ứ! Em ngại lắm! Ra ngoài nắng đen hết da. Chồng đứng ngoài đấy một mình đi.
Uốn éo một hồi, nhưng gặp ánh mắt sắc như dao cau, lông mày xăm nhíu lại đầy khó chịu của mệnh phụ ngồi cạnh kính trắng ném lại, cô ta vội líu ríu xuống xe. Cặp môi tô son đỏ chót khiêu khích, dày cao gót mười hai phân nhọn hoắt, bước hụt, trẹo chân:
- Ứ bắt đền anh. Tự dưng bắt người ta xuống xe. Đau muốn chết đây này!
- Thôi mà! Thương quá! Lại đây anh đền.

Như chốn không người, hắn cúi xuống cầm chân vợ thổi lấy thổi để ra chiều âu yếm. Chiếc kính đen rơi xuống, lộ đôi mắt lươn ti hí, trông gớm chết.
Đang xoa chân vợ, kính đen chợt buông thõng tay, nhớ ra điều gì, gài kính vào áo ngực:
- Tiền... tiền của anh đâu? Em có cầm ví của anh không?
Môi đỏ như miếng tiết trề ra, hai hàm răng sin sít:
 - Ai biết được! Chắc là chết dí vào đám tá lả lúc nãy, hết sạch rồi dở trò hành vợ phải không? Con này biết tỏng rồi nhé! Đừng có diễn nữa.

Thói đỏng đảnh của kẻ quen được chiều chuộng và thích bắt nạt người khác được phát huy. Ả ra sức cạnh khóe và xỉ mắng chồng. Mặc kệ mọi người, ai nhìn thì mặc họ, ả vẫn nói cho bõ tức.
Kính đen cúi xuống đấu dịu, xoa đôi bàn chân vợ ỏn thót:
- Thôi mà vợ ơi! Đừng hành anh nữa. Trả ví cho anh đi. Trong đó anh còn bảy trăm, cho em hai trăm nhé!
Chẳng ngại ngần, môi đỏ vẫn tiếp tục rít lên:
- Chồng ơi là chồng... Kiểu này tôi cũng phải xéo sớm. Đường ai nấy đi cho yên phận. Bỏ tay ra, không khiến cầm chân người ta nữa.
đò chưa sang
Minh họa: Ngô Xuân Khôi
Cả đò im bặt, tất cả dõi nhìn về phía chiếc ô tô và vợ chồng kính đen. Như bẽ mặt, thay bằng giọng ngọt ngào âu yếm, kính đen rít lên:
- Câm mồm... Lừa ưa nặng, về nhà mày chết với ông.
Môi đỏ bật khóc. Tiếng khóc mỗi lúc một to dần. Nhà đò khó chịu, vì đi đò người ta ngại nhất là nước mắt. Sông rộng đò đầy, vài người khách bực mình ném những cái nhìn bực bội về đôi uyên ương đang diễn. Có người còn moi túi tìm tiền lẻ thả xuống sông, mong tránh nhưng điều xui xẻo.

Hội tá lả túm năm tụm bảy cuối sàn thuyền đang vào cơ sát phạt máu lửa, nghe tiếng khóc vội ngẩng đầu lên. Gã bặm trợn trong số đó cất tiếng chửi:
- Bố khỉ! Đi đò mà còn khóc lóc. Sốt ruột... Ra ngõ mà gặp con này thì cả ngày ăn cháo. Bố mày hôm nay mà thua bạc thì cứ liệu hồn.
Gã đầu cua ngồi bên cạnh, nhăm nhăm chỉ đợi vơ tiền sốt ruột gắt lên:
- Kệ bố chúng nó! Đại ca hơi đâu mà bực mình. Có rút bài nữa hay không em còn cộng điểm. Gớm xương quá! Hóc thế này cứ câu dầm, sắp hết chuyến rồi đấy.
Hắn đéo vu vơ một hồi rồi chúi đầu vào canh bạc tiếp.
Muốn giữ thể diện, mệnh phụ giả lả:
- Vợ chồng trẻ con! Im ngay không chết với mẹ bây giờ.
Tiếng nói quyền uy, cùng với cái nhìn sắc như dao. Dâu và con chợt im bặt.

Men theo mạn thuyền là tiếng huơ gậy lộc cộc của người xẩm mù. Nón rách tả tơi, giọng hát nỉ non, ướt sũng như mưa dầm, lời hát đứt đoạn bởi âm sắc mệt mỏi khê nồng bởi thời gian năm tháng.
Đôi ta duyên phận phải chiều/ Tơ hồng phấn phít chỉ điều xe xăn/ Cầm tay giao mặt dặn rằng/ Chỉ thề nước biếc đạo hằng chớ quên/ Duyên phận i ta phải chiều/ Này ai ơi, í đôi thời, đôi lứa i ta.
Vài đồng tiền lẻ được thả vào nón rách. Kính đen thấy người xẩm giơ nón về phía mình, liền quay mặt xuống sông nhổ bọt. Vài ánh mắt khó chịu bực bội nhìn theo hắn.

Vẫn cố chờ bòn thêm vài khách, muốn không khí dịu xuống, lái đò xởi lởi:
- Có hai anh chị về quê giỗ cụ thôi ạ?
Mệnh phụ xăm lông mày nhếch mép quyền uy:
- Cảm ơn cô! Các cháu đều về nhưng đi sau, chỉ có vợ chồng thằng út là đi cùng chúng tôi.
Ngón tay đeo nhẫn cẩn đá quý, chỉ tay về phía dâu con đang uốn éo bên cửa xe. Mái tóc búi cao lộ cần cổ trắng mập mạp, sợi dây chuyền vàng to như cái xích quàng quanh cổ cùng màu áo đen càng tôn vẻ kiêu bạc sắc sảo của người đàn bà.

Kính trắng vẫn lơ đãng nhìn mặt sông. Bèo vẫn dạt, mây vẫn trôi. Dâu con vẫn hấm hứ nguýt nhau. Kính trắng thờ ơ, chẳng có gì đáng quan tâm hơn những đám bèo trên mặt nước. Bỗng chuông điện thoại réo vang, buộc phải bắt máy :
- Tôi lên đò rồi! Chú bảo sao, tiền giỗ ấy à? Tôi tưởng nó nộp rồi chứ? Thôi được, chú ra đây lấy nhé!
Kính trắng hướng mắt về phía quý tử đang chành chọe nhau :
- Sao mày không nộp tiền giỗ? Chú điện ra đòi đây này. Rõ xấu mặt, con với cái. Không ra thể thống gì nữa.
Tiếng thở dài loang vào sông nước. Kính đen vênh mặt:
- Ơ sao bố lại mắng con. Con nộp rồi chứ.
 Người đàn bà lườm chồng một cái sắc lẻm:
- Anh em nhà ông thật rách việc. Nó nộp rồi lại gọi điện bảo là chưa, giỗ chạp thế này từ sau mẹ con tôi không bao giờ dám về nữa! Rõ khổ vì miếng ăn, kính chẳng bõ phiền.

Chẳng còn hứng thú sau cuộc điện thoại của người em, không thể nín nhịn được nữa, kính trắng định cho thằng út một bài học về đạo làm người cho bõ ức, nhưng giữa chợ giữa đò nên đành nín nhịn cho êm.
Đò quay mũi sang sông. Một người tấp tểnh bước xuống, khuôn mặt đỏ gay, bước đi xiêu vẹo:
- Chờ tôi chút đò ơi!
Ngón tay đeo hai nhẫn vàng to kệch, khuôn mặt méo xệch. Nụ cười nịnh bợ, y giơ tay, ngọng líu:
- Cho em bắt tay tiễn bác cả nhé! Gớm cả họ mình em chỉ hợp với mỗi anh thôi. Anh đi là em nhớ.... hu hu hu...
Không biết có phải y cảm động hay không mà tu lên khóc. Khóc nức nở ai oán, y khổ tâm khóc, hay rượu khóc? Kính trắng bối rối nhìn người anh em họ giơ tay bắt tay con trai mình:
- Cháu về nhé!
Thằng cháu gạt tay chú gắt lên một tiếng.

Rồi hắn lôi ông chú họ xềnh xệch lên bờ. Mọi người nhìn theo, có kẻ bình luận:
- Sao mà giàu thế nhỉ? Gớm cái nhẫn vàng trên tay lão ta to như con đỉa trâu ấy. Tôi đố bà biết đó là vàng thật hay vàng giả.
Kính trắng ngượng với mọi người quay ra thanh minh:
- Chú ấy vừa bán con trâu mộng. Mua được mấy chỉ vàng đeo hết vào tay đấy. Rõ khổ, suốt ngày say nhưng đối với anh em thì tử tế lắm!
Có kẻ chẳng cần giữ ý nhìn về phía kính đen buông tiếng:
- Con với cháu, rõ khổ...
Chẳng còn giữ ý, thằng con hằn học quay về phía bố:
- Con chán họ mình lên tận cổ, mỗi lần về quê đối với con là cả cực hình. Bố lúc nào cũng khoe, quê mình tốt, quê mình đáng yêu. Bố tưởng con không đóng giỗ hay sao. Lúc nãy ngồi xuống chiếu con còn chạy ra quán mua thêm một thùng bia về khao cả họ đấy thôi. Nhưng thóc đâu mà đãi gà rừng, đấy là con muốn làm sang cho bố. Thùng bia của con chả thừa tiền đóng giỗ hay sao? Thế mà còn điện thoại đòi tiền giỗ. Thật chẳng giống ai cả. Từ nay con cạch đến già không về quê nữa đâu.

Thuyền chòng chành, cả đò im lặng lắng nghe cuộc đấu khẩu của hai bố con. Không dằn được nữa, kính trắng giơ tay định tát vào mặt thằng con mất dạy. Nhưng nó nắm chặt tay bố:
- Bố đừng làm thế! Đừng nghĩ con bất hiếu, bố còn nhớ khi con còn bé, mỗi lần về quê, bao giờ bà cũng xoắn lấy anh cả, khen đẹp trai rồi cưng nựng là đích tôn yêu quý của bà. Có hai con chó con, con vàng đẹp nhất, anh cả đòi bà cho ngay. Còn con kia bà không cho con, mà lại đem cho hàng xóm với lí do là trót hứa với người ta rồi.
Nói xong nó thần mặt nhìn dòng nước uất ức, quay sang mọi người như phân bua, khuôn mặt đanh lại. Vài tiếng xì xào nổi lên:
- Nó nói cũng đúng. Nó đã mua bia rồi coi như đóng giỗ, thế mà còn đòi tiền.
- Bà nói thế không được, cái việc khao bia mọi người là phát sinh thơm thảo. Quê mình nghèo, giỗ chạp là phải bổ, phận con cháu phải đóng góp đầy đủ chứ. Chưa nộp thì người ta nhắc có sao đâu.
Tiếng bấc đưa qua tiếng chì ném lại, con đò chòng chành vì chiếc xe ô tô khá nặng.

Kính đen ngồi bệt xuống mạn thuyền, ấm ức nhớ lại. Trưa nay mọi người còn ngất ngư trong chiếu rượu, nó ăn nhanh, rút ra vườn đi dạo như ngắm cảnh, nhìn mảnh vườn ba sào trĩu trịt cây ăn quả và cái ao hơn sào đặc cá mà nó tiếc chảy máu mắt. Nó hận bà nội vì tất cả những hương hỏa màu mỡ đó lại không thuộc về nó. Phút giây lâm chung, bà cầm chặt tay thằng cả mà dặn dò:
- Bà không sống được nữa, vườn tược đất đai hương hỏa, bà cho con để con hương khói thờ cúng tổ tiên. Thằng út đã có bố mẹ lo cho rồi.

Anh cả khóc nấc lên. Đám ma bà, anh khóc sưng mắt, khi hạ huyệt mọi người phải kéo anh lên khỏi lỗ huyệt mới đặt được bà cụ xuống. Cả làng cả họ ai cũng nức nở khen anh hiếu đễ, thế mà ngày giỗ đầu bà nội anh có về quê đâu. Suốt ngày công cán nước ngoài, chỉ có vợ về ra chiều hiếu thảo.

Càng nghĩ kính đen càng giận bà nội. Hắn chép miệng, sống cũng chẳng ăn ai nữa là chết, giỗ chạp chỉ là hình thức, bày đặt tốn kém, mất thời gian có khi lại đem tới bực mình. Nó nhớ cái lần nghỉ hè năm thứ nhất, dẫn bạn gái về quê. Trăng sáng dãi vườn cây, gió hây hây thổi, nó rủ bạn gái ra vườn ngắm trăng. Cảnh và người đang hổn hển sinh tình. Vòng tay hắn xiết chặt bạn gái, đúng lúc cao trào nhất thì tiếng gọi của bà cất lên:
- Linh ơi! Khuya rồi vào đi ngủ với bà thôi cháu ơi!
Con bé xấu hổ chạy vào nhà. Nó tiếc rẻ đứng bần thần ở cầu ao mãi. Tự dưng thấy bực bội và buồn buồn trong lòng. Nhưng nó thực sự oán bà nội khi sau đợt về quê, nó và bạn gái chia tay với một lí do xưa như trái đất:
- Mình tập trung vào học đi anh ơi! Chúng ta còn quá trẻ để nghĩ đến chuyện riêng tư. Bốn năm nữa mới ra trường cơ mà. Khi đấy hãy hay anh nhé!

Sĩ diện nó cho cô bạn gái mất hút luôn nhưng vẫn buồn vì chăn mãi mới được đứa con gái ngoan thế mà trong phút giây trắng tay. Nó đinh ninh rằng, chắc là do bà nội nhắc nhở nên con bé sợ sao nhãng việc học tập. Nó ghét bà từ dạo ấy. Bà cụ ốm nặng, muốn gặp nó, nó vẫn thờ ơ lấy lí do bận bịu. Chỉ đến khi xong việc ma chay cho bà thì bố nó gọi riêng nó ra vườn:
- Bà cho con cái nhẫn hai đồng cân và cái lắc vàng đây này. Bà không muốn cho ai biết, con cầm lấy đi.
Nhìn thấy vàng bụng mừng quýnh nhưng nó vẫn cố tỏ ra thờ ơ:
- Ui chao! Bà vẫn nghĩ rằng có thằng cháu này ư? Con tưởng trong mắt bà chỉ có thằng cả.

Khuôn mặt nó vênh lên, hàng ria con kiến nhếch lên nụ cười bạc bẽo, đưa tay cầm gói vàng bỏ túi, rồi bước nhanh vào nhà. Ông bố nhìn thấy cả sự bạc bẽo và đểu giả của con mình nhưng đành phải nuốt nhục vì mẹ vừa nằm xuống ai dám ầm ĩ sợ mang tội bất hiếu.

Tiếng máy nổ đều đều, bèo vẫn cuốn vào bánh lái. Hai ả mắt xanh mỏ đỏ tênh hếch ở mạn thuyền, đánh mắt hết chỗ này đến chỗ khác. Gã thầy bói đeo kính đen đang thao thao bất tuyệt với chị bán ngan:
- Số chị tuy vất vả về đường chồng con nhưng hậu vận rất tốt. Điền trạch vượng, ruộng thẳng cánh cò bay thế này thì ăn sao cho hết. Chị là người hiền đức ắt phát về sau.
Như khơi đúng cõi lòng, chị bán ngan sụt sịt:
- Bẩm thầy, thằng chồng con bỏ nhà theo gái nửa năm nay không thấy tăm hơi. Liệu chồng con có quay về nữa không?
- Chị này rõ dở hơi! Thầy nói rồi, nó theo gái chán rồi sẽ về, làm sao mà đoạn tuyệt được với mẹ con chị. Đàn ông mà! Chẳng thằng nào ngu phá nhà mình ra đâu, nó chỉ cơi nới thôi. Gớm, khóc làm gì cho nó tàn phai nhan sắc.

Mây ùn ùn kéo về, những trảng mây đen kịt, trời bỗng dưng tối sầm như cuồng phong bão tố, gió bốc hơi nước mát lạnh phả lên mạn thuyền. Ai cũng nhìn trời lo lắng. Ả mắt xanh mỏ đỏ nắm chặt tay gã thầy bói, như sợ gió thổi bay mình xuống sông.

Chiếc lồng ngan buộc không kĩ xổ tung ra, cả đò nhốn nháo vì cái nhà chị buôn ngan chộp hết chỗ này, chạy sang chỗ khác.
Kính đen bỏ vợ đứng cạnh xe ra ngay đầu mũi thuyền chửi thề:
- Bố khỉ, ngan với vịt, buộc thế à? Nhốn nháo ảnh hưởng tới người khác.
Đò chợt chao đảo, nghiêng ngả. Tiếng máy đang giòn đều tự nhiên tắt ngấm. Một con tàu vừa lướt qua cuộn sóng chồm lên cao táp vào mạn đò. Con đò chới với quay nghiêng....
Những đám hoa tả tơi và chân nhang vẫn lênh đênh trên sóng nước
L.H.N

Sunday, September 25, 2016

Trai làng

Trai làng

DƯƠNG QUỐC HẢI

Quả đồi nhỏ gần sông hơi cách biệt với làng có hình dáng một con rùa. Khi lũ to, nước ngập hết xung quanh, đứng từ cao nhìn thấy đủ cả đầu lẫn chân trông càng giống. Một người hay chữ đi qua phán: “Ai làm nhà chỗ này thì no chứ không giàu. Con trai sinh ra khỏe mạnh, nghịch ngợm, gặp thời có thể thành anh hùng, không gặp có thể làm giặc, nhưng dù thế nào cũng vẫn là người tử tế”. Ông Tác bốn mươi tuổi vẫn chưa có con, nghe vậy dọn nhà ra quả đồi ở. Ông tặc lưỡi: “Thời nay làm gì có ai giàu, may lắm là không đói, thế mà ở đấy lại đủ ăn. Nếu sinh được thằng con trai, nó khỏe mạnh thì còn gì bằng. Nó làm anh hùng hay làm giặc mà tử tế thì đều tốt cả”.

Mấy năm sau ông sinh Tộ, lớn đi học được cải là Tô. Sau ông còn sinh thêm được cái Tịa.
Mười sáu tuổi, Tô cao lớn vạm vỡ nổi bật trong đám bạn bè cùng trang lứa, có người tưởng Tô đã hai mươi. Học lớp sáu với Tô phần lớn vắt mũi chưa sạch. Vốn đã chán học, giờ thấy mình lộc ngộc, Tô ì ra không học nữa, chỉ cắp sách đến lớp ngồi hết buổi thì về.

Giờ văn, cô giáo gọi Tô hỏi định nghĩa thế nào là chủ ngữ, vị ngữ. Tô đứng ngay đơ, cả lớp cười ồ. Cô giáo viết lên bảng dòng chữ “Tôi không học bài”, bảo Tô phân tích thành phần câu, khoanh dấu tròn từng bộ phận chủ ngữ, vị ngữ. Tô bảo: “Em không biết phân tích. Em chỉ biết phân chuồng với phân xanh. Ở lớp có mỗi cô giáo xưng tôi, còn lại ai cũng xưng em. Nên chữ “tôi” là cô giáo. Cả câu là: “Cô giáo không học bài”.

Cô giáo ném sách vở của Tô ra ngoài, bảo về gọi bố mẹ đến xin lỗi nếu không từ nay đừng học giờ văn của cô. Tô chẳng nói chẳng rằng, ra ngoài nhặt đá ném thẳng vào lớp, một hòn trúng bắp chân cô giáo, cô kêu “ối” rồi khuỵu xuống, mặt cắt không còn giọt máu. Cả lớp dúi dụi rúm vào nhau chết lặng, không đứa nào dám nói nửa lời.

Bố Tô đánh con một trận thừa sống thiếu chết, trước sau Tô nhất định bảo không đi học. Ông bố đành chịu, bắt Tô ở nhà đóng gạch. Đang mùa đông, Tô cởi trần, bắt trâu quần đất, trâu sùi bọt mép không ăn được cỏ. Tô đóng từ sáng đến tối, sang cả đêm, chỉ một tháng đã được mấy vạn chất từng hàng thẳng tắp. Không cần bố bảo, Tô đi làng bên học mót kĩ thuật vào lò gạch, về tự làm, đóng than đốt. Lò cháy ngùn ngụt, đêm đông hồng rực một góc làng như cái bấc đèn hút đám thiêu thân. Ông Gù đi đánh dậm, lão Tạch đi bắt nước, bà Tơ đi đánh trúm đêm đều vào cả chỗ Tô hơ tay. “Tao lội xuống cái đầm hợp tác đánh trộm một lúc mà đễu quá mày ạ”, ông Gù trật cái giỏ đầy ụ lúc nhúc cá trê, cá diếc, cá rô, hào phóng bỏ ra mấy con xóc vào que nướng chia cho mấy người cùng ăn. Lão Tạch thích chí gật gù: “Ướt dái sái hàm, các cụ nói cấm sai. Ông Gù ướt dái thì chúng mình được sái hàm!”. Bà Tơ thích Tô ra mặt, không ngớt mồm khen, bảo: “Mày có làm rể u, u cho không con Tới”.

Tô mủm mỉm trải manh chiếu rách lăn ra ngủ. Ba người tán chuyện một lúc thì ai đi việc nấy, lát sau hai người đàn ông hộc tốc trở lại. Ông Gù thở hổn hển, lay lay Tô: “Dậy, dậy! Có người chết đuối ngoài sông”. Lão Tạch thấp khớp, chân thấp chân cao cũng thập thững chạy vào cùng ông Gù lay Tô: “Dậy ngay! Có người chết đuối!”. “Có người chết đuối! Bớ! Có người chết đuối!…”, tiếng bà Tơ tan trong gió, lẫn vào tiếng trời đất rầm rì, tiếng sông nước réo ngoài xa. Tô vùng dậy mắt nhắm mắt mở, nghe nói cứu người liền ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào làng. Ông Gù nhặt hòn đá ném trúng vai Tô, Tô dừng lại ngơ ngác. Ông Gù chạy đến, ho rũ rượi: “Không phải trong làng, ngoài sông…”. Tô nghe ra, chạy thẳng ra sông. Hai người sấp ngửa chạy theo.

Lao xuống dòng nước, Tô sải một hồi thì bắt gặp cái bè ghép bằng mấy cây chuối trơn nhẫy có bốn cánh tay ôm chặt không rời. Hai đứa con gái không còn kêu được nữa, một đứa sắp lả đi buông tay khỏi cây chuối thì Tô đến kịp. Tô ném một đứa lên bè, xốc nách một đứa, một tay bám bè chuối, chân đạp nước thật lực. Tô đẩy bè chuối vào bờ, nằm lăn ra thở, bảo bà Tơ: “Bà đưa chúng nó về lò gạch sưởi. Cháu mệt quá, nghỉ một tí về sau”. Hai đứa trẻ con sáng ra, khô quần áo tự hỏi thăm đường về, đi lúc nào không ai biết. Mấy hôm sau, nhà hai đứa trẻ thoát chết đến nhận Tô làm anh của chúng. Một trong hai đứa tên là Vân, nhà ở thành phố, học năm đầu cấp ba. Ngày nghỉ Vân đến nhà bác họ chơi. Nhà bác ở gần sông, có chiếc bè chuối thỉnh thoảng ông bác đi vớt bèo. Gần sáng người nhà dậy đi chợ, Vân dậy theo, rủ đứa em ra bè chơi, không ngờ cái bè trôi ra… Vân cao gầy nhưng rất xinh, đứng nép bên bố, len lén nhìn Tô. Bà con kéo đến đông, mỗi người một câu. Bà Tơ bảo: “Thằng Tô tướng mạo như Quan Vũ, cái Tới nhà này lùn một mẩu chả bén gót. Con Vân xinh thế kia, nay mai lớn lấy thằng Tô thì đẹp đôi”. Tô nghe, gắt: “Ranh con, yêu đương gì”.

Tô bảo bố mua vôi tôi, chặt gỗ ngâm rồi bỏ đi biệt mấy tháng mới về. Ai hỏi cũng chỉ cười. Tô gọi đám thanh niên lau nhau cùng tuổi trong làng đến phụ, đánh vữa, xe cát, tự làm thước, con rọi xây nhà. Thế mà Tô làm được. Mấy ông phó mộc tấm tắc: “Chịu cái thằng này. Thanh niên làng học cho lắm vào rồi hỏng. Cứ như thằng này bố mẹ lại được nhờ”. Nhà ông Tác trở thành căn nhà đầu tiên của làng được xây bằng gạch. Nó sừng sững, uy nghi, có vẻ lớn hơn nhiều kích thước thật. Người làng đua nhau đóng gạch, xây nhà. Vài năm sau ngói đỏ cả vùng.
trai làng
Minh họa: Vũ Đình Tuấn
Tô vỡ sườn đồi vườn nhà phía giáp bờ sông trồng mía. Mùa thu hoạch, Tô chặt bán khắp chợ quê. Chả mấy ai mua, Tô bèn chặt cây nhãn làm cọn mật, gọi thợ về kéo. Mẻ đầu thơm lừng, làng xóm kéo đến đông như ruồi. Tô bảo thợ đổ hẳn một mẻ kẹo kéo mời bà con ăn. Được mấy hôm, lão thợ mật dở quẻ, đòi Tô ứng trước tiền công về nhà có việc. Tô nhẩm tính, riêng công của lão mất một nửa sản lượng đường. Tô làm cơm, mời lão uống rượu, bảo: “Ông đòi công đắt quá. Thấy tôi trẻ nên ông bắt nạt à. Tôi chỉ có trả ông một phần năm số ấy, ông thấy thế nào?”. Lão thợ mật cởi áo khoe những hình xăm đại bàng, rắn rết. Tô cười nhạt: “Tôi không quỵt của ai, nhưng cũng không cho ai bắt chẹt mình”. Lão thợ mật đấm luôn một quả giữa mặt Tô làm Tô ngã ngửa. Tô vùng dậy chạy ra sân, ông thợ mật lao theo, chỉ vờn mấy nhịp Tô đã quật lão ngã chỏng gọng. Tô bảo: “Ông bắt nạt người quen rồi, chưa ai sửa tính ấy cho ông. Nếu ông thôi thì tôi trả đúng công sức ông bỏ ra, còn định đánh thì tôi xin vài cái răng để ông nhớ”. Lão thợ mật nhảy vào lần nữa, Tô không khách sáo, đấm thẳng một cú vào mồm lão khiến lão lăn lộn một hồi, nhổ ra hai cái răng.

Thanh toán xong với lão thợ mật, Tô tự nấu. Mẻ đầu hỏng, nhưng từ mẻ thứ hai thì được, đường đông kết vừa độ, không non, không già. Làng xóm bắt chước Tô khai hoang trồng mía. Mùa giáp hạt, khắp nơi đói, đàn lũ dắt díu nhau đi xin sắn xin khoai mãi miền rừng. Làng Tô nhờ có mật đường, dân tình vẫn còn thoi thóp.

Một lần Vân đi honda 67 về chơi, tủm tỉm cười nhìn Tô đánh độc quần đùi cuốc hố đất trồng cam. “Trông anh như Hécto thành Tơroa. À không, phải như Tácdăng mới đúng”, cô bảo. “Thế là đẹp hay xấu?”. “Đẹp tàn bạo, hoang dã nữa”. Tô cũng cười cười: “Còn cô, nếu cô mặc váy thì trông hệt cái cô Liu ba trong phim Đại úy đen”. “Thế là đẹp hay xấu?”. “Đẹp tàn bạo nhưng mà không hoang dã”. Tô nhại lại câu khen của Vân mủm mỉm.

Vân khoe đã thi đỗ đại học y, chuẩn bị về thủ đô nhập học. Vân hỏi Tô có muốn đi chơi Hà Nội không. Tô thật thà bảo: “Tôi chưa đi thủ đô, giá có tiền đi một chuyến cũng thích”. Vân bảo: “Em không giàu nhưng đủ lo được cả hai”. Tô nói: “Cái tính tôi nó không giống ai, có tiền thì tiêu, chứ đi tiêu nhờ, mà lại của con gái thì tôi xấu hổ lắm”. Vân phụng phịu: “Anh cứ xa cách như người lạ không bằng. Em tự thấy mình còn hơn cả em ruột anh. Em thi đỗ đại học, ai cũng mừng, chỉ có anh chả động viên lấy một câu, lại cứ dửng dưng”. Năm lần bảy lượt Vân mời, Tô đều lắc đầu. Vân phi xe máy về mà mắt đỏ hoe.

Chiến tranh phía Bắc, có lệnh tổng động viên, Tô xung phong đi lính, đến lúc có giấy gọi, ông Tác thương con nằm khóc. Tô bảo: “Ở nhà còn em Tịa. Con là trai thời loạn phải có trách nhiệm. Đi một ngày đàng học một sàng khôn, con không chết đâu mà bố lo”.
Ngày liên hoan Tô nhập ngũ, thanh niên làng trên xóm dưới kéo đến rất đông. Dịp ấy mới thấy các cô phải lòng Tô có đến cả chục. Tình ý rõ nhất là cô Tới con gái bà Tơ. Cô ăn diện áo pôpơlin trắng, quần láng Nam Định đen bóng. Vân từ Hà Nội cũng về. Cô ăn mặc giản dị như các cô gái làng mà vẫn nổi bật bởi vẻ đẹp rực rỡ như bông hoa đang độ mãn khai. Mặc những ánh mắt lườm nguýt, Vân đi lại bưng bê, chào hỏi ân cần như con cái trong nhà. Bữa tiệc tàn, thanh niên còn hát hò, nhảy va si lô đến nửa đêm. Vân rủ Tô đi dạo, cô ướm hỏi: “Người ta trốn chả được, anh lại xung phong, hay là có kế hoạch gì chăng?”. Tô gãi đầu: “Tôi muốn đi đây đi đó, quanh quẩn ở làng mãi tù túng lắm”. “Thế đi lính xong anh định làm gì?”. Tô cười: “Tôi không giỏi quy hoạch cuộc đời cô ạ. Cứ được đến đâu hay đến đó. Chả nên cơm cháo gì thì hết nghĩa vụ tôi lại về làng, trồng mía, chăn trâu. Thế được không cô?”. Vân bỗng nắm bàn tay Tô, nồng nhiệt: “Anh là người giỏi, khéo tay, định làm gì là làm được. Nay mai đi bộ đội về, anh nên đi học lấy một nghề. Em có người nhà ở sở lao động, em sẽ tìm hiểu xem nghề nào thích hợp thì báo cho anh. Có chế độ ưu tiên bộ đội xuất ngũ anh ạ”. Tô cười ruồi: “Tôi văn dốt võ dát, trong đầu không có óc, chỉ toàn đất sét. Có lẽ tôi cứ về đi cày là hơn…”.

Tô đi được dăm tháng, một hôm Vân phóng xe về gặp ông Tác mếu máo: “Anh Tô bị thương bác ạ. Cháu có anh bạn làm ở bệnh viện quân khu báo cho biết”. Ông Tác vội vàng cơm đùm cơm nắm cùng Vân đi thăm con. Tô bị thương ở bả vai và mất một dẻ xương sườn. Thấy bố và Vân đến thăm, Tô cảm động nhưng lại nhăn nhó: “Con có sao đâu mà bố phải vất vả. Ai báo cho bố biết thế?”. Ông Tác sờ nắn khắp người con, có vẻ yên lòng phần nào. Phòng Tô người ra vào tấp nập, hết sĩ quan sư đoàn lại đến sĩ quan quân khu. Ông Tác và Vân muốn nói chuyện riêng một lúc với Tô cũng không được. Buổi tối, cơ quan tuyên huấn quân khu mời cơm ông Tác và Vân. Một ông đại tá bảo: “Chúng tôi cảm ơn bác đã sinh cho quân đội một người anh hùng, một dũng sĩ. Đồng chí Tô chiến đấu vô cùng dũng cảm, sáng tạo, lập chiến công rất vẻ vang. Chúng tôi đang đề nghị cấp trên có hình thức khen thưởng xứng đáng cho con trai bác”. Lúc ra về, viên sĩ quan tháp tùng ông đại tá ghé tai Vân nói nhỏ: “Chúc mừng cô và bác. Anh Tô đang được xây dựng điển hình để phong anh hùng”.

Hôm sau ông Tác về, Vân còn ở lại chơi với anh. Người ta ý tứ dành cho Tô và Vân một buổi không bị quấy rầy. Tô quấn băng kín bả vai, vòng dây đeo một cánh tay trên bụng, anh chống nạng đi lại quanh bệnh viện. Vân kể lại thông tin nghe được hôm qua, Tô cười phá lên: “Xây dựng á? Giờ tôi mới nghe đấy”. Vân hồn nhiên: “Em nghe nói thế... Thì anh xứng đáng mà. Anh kể xem đã chiến đấu thế nào”. Tô ngồi xuống một ghế đá, giọng anh nhỏ lại: “Anh hùng gì đâu Vân! Ba đại đội tiểu đoàn tôi giữ một điểm cao. Pháo bầy dập, ban chỉ huy tiểu đoàn hi sinh hết. Quân địch tràn lên hết lớp này đến lớp khác. Anh em nao núng, một số bỏ chạy. Tôi quay về phía sau, núi đá chẹn không còn đường lùi. Nhìn đội hình hỗn loạn biết rằng cứ thế này sẽ chết ráo. Tôi hô “Đằng nào cũng chết! Oánh tới đi!”. Cậu bên cạnh bị thương, nạp đạn sẵn nằm giữ súng, tôi cứ thế kẹp súng vừa quét vừa tung lựu đạn cho đến khi ngất đi. May vừa lúc có quân tiếp viện...”.

Mắt Tô đỏ hoe nhưng không có giọt lệ nào. Anh thảng thốt: “Cả tiểu đoàn hi sinh gần hết, chỉ còn tôi và tiểu đội trưởng sống sót. Anh ta cũng đang điều trị ở đây. Kì quặc là anh ta bảo đã ra lệnh cho tôi cùng anh em chiến đấu lúc đã bị thương, trong khi, anh ta chạy đầu tiên, rúc đầu vào hầm như đầu rùa rụt vào cổ... Nghe anh em kể, lúc lôi anh ta ra, chiếc quần bĩnh đầy nước đái khai mù... Còn vết thương ở ngón chân anh ta là do miểng lựu đạn của địch văng vào”.

Vết thương lành, Tô được mời đi khắp các đơn vị tuyến đầu, tuyến sau báo cáo thành tích, kể lại hành động anh hùng của mình. Anh không thích nhưng được cấp trên quán triệt đó là nhiệm vụ nên đành chấp hành. Anh kể về trận đánh của mình mà như đọc một câu chuyện khác của ai. Một lần cả anh và tiểu đội trưởng cùng được mời báo cáo ở một học viện. Tiểu đội trưởng nói trước, thao thao mình đã gan dạ thế nào, mưu trí ra sao, ra lệnh anh em lúc đánh lúc ngừng thế nào để vừa tiêu diệt được nhiều sinh lực địch vừa tiết kiệm đạn và nhất là tiết kiệm được xương máu bộ đội rồi giơ bàn chân bị thương còn băng trắng tinh ra khoe như khoe tấm huân chương. Đến lượt mình, Tô kêu đau đầu không báo cáo được. Vào hậu trường, Tô túm cổ tiểu đội trưởng, gầm lên “Đồ hèn! Đồ trơ tráo!” rồi quai thẳng một cú vào giữa cái miệng ướt át của anh ta, biến nó thành màu đỏ loét. Vệ binh ngay lập tức bắt giữ Tô. Anh không buồn trả lời lí do vì sao lại đánh.

Sau vụ ấy, Tô phục viên.
Tô về, lại cấy lúa, trồng khoai, trồng mía, như chưa từng suýt trở thành anh hùng. Cái đầm lớn ở quê anh nơi ông Gù hay đánh dậm năm xưa được một đơn vị thanh niên xung phong khai khẩn, biến thành một xí nghiệp thủy sản sản xuất cá giống và cá thịt. Người qua lại hai bờ sông ngày một nhiều, Tô đan một chiếc thuyền và trở thành người lái đò.

Vân về thăm Tô, thông báo một tin đặc biệt, cô được chọn đi du học ở Cộng hòa dân chủ Đức và muốn hỏi ý kiến anh. Tô cười: “Ý kiến ý cọt gì. Em học giỏi mới được chọn đi thì đi chứ còn gì nữa”. Vân nói như sắp bật khóc: “Việc hệ trọng mà anh vẫn còn đùa. Nếu anh bảo ở lại thì em ở lại, nếu anh bảo phải đi thì em mới đi”. “Thì anh bảo em đi mà”, Tô vẫn cười. Vân gắt: “Em đi nhưng anh phải thế nào chứ?”. Tô ngớ ra: “Thế nào là thế nào? Anh vẫn chèo đò đây. Em có muốn nghe anh hò không?”. Nói rồi Tô cất tiếng hò: Ơ hò… Thuyền nương con sóng sang sông. Em qua bên ấy lấy chồng thì thôi….
Vân ôm mặt khóc đi về.

Một hôm, Tô đang nằm chờ khách thì mấy thanh niên làng ra gọi: “Anh Tô, bảo vệ thủy sản bắn chết người!”. Tô bật dậy chạy theo. Bà Tơ cũng hòa vào dòng người đông đảo đang bị kích động mạnh lên tới hàng trăm, vung cây gậy gầm lên: “Cứt cá lá rau! Đói khổ người ta ăn trộm con cá mà bắn người như bắn giặc. Tìm thằng nào bắn chết người, mạng đền mạng!”. Bà con ào vào, bảo vệ khiếp vía chạy tháo thân. Từ văn phòng xí nghiệp đến các đội sản xuất vắng hoe. Ông giám đốc béo bụng lập cập ra định phân trần thì bị đám thanh niên tọng mấy quả vào bụng gục xuống van xin rối rít. Chưa hả giận, mái nhà xí nghiệp bị ném đá ngói thủng lỗ chỗ, tường xây dở bị lật nhào, chiếc xe gíp vô tội, món tài sản đáng giá nhất của xí nghiệp nằm trơ như con cóc cụ trong gara bị châm lửa cháy ngùn ngụt… Cơ ngơi có lẽ sẽ bị phá tan tành nếu không có đội công an huyện nhận tin cấp báo được điều về. Đích thân ông chủ tịch, bí thư huyện ủy đứng ra nói chuyện úy lạo bà con. Hai hôm sau cơn điên giận của người làng mới nguôi phần nào.

Hình thành một vụ án, Tô bị coi là kẻ cầm đầu. Tội danh của anh được xác định nằm trong khung mười hai năm tù giam; song một lần nữa thành tích thời kì quân ngũ lại giúp anh được giảm án một phần ba.

Ra tù, Tô hơn ba mươi tuổi, tóc bạc gần nửa, nhưng béo trắng ra. Người cán bộ trại tù gọi anh lên kiểm kê nhận tài sản. Tô kiểm thấy có một mũ cối, một áo phông cá sấu Thái Lan, một bộ quần áo gabađin, một đôi tông lì, một đôi giày đen, một hộp dao cạo râu chắc của nước ngoài, trông rất sang trọng, một chiếc kính râm. Người cán bộ bảo: “Mỗi năm người nhà anh gửi cho anh một món, chúng tôi giữ lại cả ở đây. Anh xem đủ chưa?”. Tô bảo: “Nếu thế chắc còn thiếu một thứ. Tôi tù tám năm mà ở đây mới có bảy món”. Người cán bộ xem lại, à một cái: “Quên, món mới nhất vừa gửi tháng trước, nó đây”. Người cán bộ  lôi trong ngăn tủ ra một gói nhỏ: “Một cái đồng hồ Vile phá gốc tre. Người nhà anh chu đáo nhỉ?”.

Tô về làng, vận quần ga, áo phông cá sấu, đi giày đen, đeo kính râm, đồng hồ đeo tay, lại khoác một ba lô nặng. Gặp em gái, Tô hỏi có phải đã gửi đồ cho anh không, cô Tịa bảo không. Anh làm một túp lều nhỏ góc vườn kế bến đò và cưới cô Tới, người vẫn yêu anh như năm xưa làm vợ. Vợ chồng anh sinh được ba đứa con, hai trai một gái. Anh vẫn mải miết chèo đò, đánh cá, trồng cây. Nhà anh lúc nào cũng sẵn thức ăn, lại có đồng ra đồng vào. Tháng ba ngày tám còn cho bà con vay mượn khá nhiều.

Rủi một hôm cô Tới đi làm đồng, trưa nắng còn cố móc cua, cảm lăn ngay ra ruộng. Được tin báo Tô chạy ra đồng thì Tới đã lạnh ngắt, hàm răng cắn chặt. Bà Tơ khóc: “Con ơi là con ơi, có nghèo đói gì cho cam mà con tham công tiếc việc đến nỗi phải gió cắn răng thế này”.
Tô góa vợ ở tuổi bốn mươi.
*
*   *
Sáu mươi tuổi, mái đầu bạc trắng, Tô vẫn tráng kiện, hồng hào, tuy hàm răng đã rụng một nửa. Ít nói hơn xưa, nhưng ở ông luôn toát lên một vẻ tự chủ cao độ, khiến người tiếp xúc phải vị nể. Bến đò không còn nữa, chỗ đó đã có cây cầu xi măng vĩnh cửu thay thế. Đàn con cực kì chiều chuộng người bố đã hi sinh cả đời vì chúng, không dám phiền đến ông bất cứ việc gì và tôn trọng tuyệt đối sở thích, lựa chọn cá nhân của ông. Ông chăn một con trâu làm vui, đan một chiếc thuyền nhỏ, chiều chiều đi thả nắm lưới và giắt sau lưng cút rượu. Nướng cá, uống rượu, mệt, ông ngủ luôn tại thuyền, úp chiếc nón lên mặt.

Ngày nọ, một chiếc xe hơi đời mới chạy lại xịch đỗ trước cửa nhà ông Tác xưa, nay là nhà bà Tịa. Một người đàn bà trung tuổi sang trọng bước xuống hỏi thăm ông Tô, con bà Tịa chỉ ra phía chân cầu.
Người đàn bà không quản quãng đường bùn đất, xắn cao quần lội qua mấy vũng nước đến chân cầu cất tiếng gọi ông Tô. Đến lần thứ ba, ông Tô mới bỏ chiếc nón úp mặt từ từ ngồi dậy trên thuyền. Nhận ra người đàn bà, ông không buồn, không vui. “Lâu quá rồi nhỉ? Tôi biết sẽ có ngày bà về thăm tôi!”. Người đàn bà lôi trong chiếc túi nhỏ mấy quả xoài gọt mời ông ăn, uống cùng ông hớp rượu. Hồi lâu, bà nói: “Em vẫn hỏi thăm, vẫn biết chính xác hầu hết những gì quan trọng diễn ra trong cuộc đời anh. Giá như anh nhớ em, gọi em một tiếng, em sẽ bỏ tất cả về bên anh… Nhưng anh ngang tàng lắm…”. Người đàn bà rút khăn tay lau nước mắt: “Giá ngày xưa anh nói nửa câu như vừa rồi để em khỏi bán tin bán nghi thì nhất định chúng mình có nhau, trả giá nào em cũng trả. Không lí gì tấm lòng như anh, sức lực như anh, tài hoa như anh mà mình không hạnh phúc… Em cũng có một cuộc sống bình thường như anh nói, không oán giận, trách móc gì. Cách đây ba năm, chồng em mắc bệnh hiểm nghèo đã qua đời. Các con em trưởng thành cả, chúng đều có cuộc sống riêng. Em về đây tìm anh, chỉ có một tâm nguyện được rước anh về chúng mình nương tựa nhau lúc tuổi già. Cho em được chăm sóc anh đoạn cuối…”. Ông Tô ngồi lặng, một niềm đau đớn sâu xa. Ông bỗng rơi nước mắt, lần đầu tiên trong đời ông khóc: “Tôi cảm ơn tình ý của bà! Cho tôi lạy bà một lạy này! Nhưng tôi ở đây thôi, với dòng sông, con thuyền, con trâu, với làng… Cái tình của tôi với bà, chúng chứng giám cả… Kiếp sau tôi xin được trả nợ bà!”.

Hai người ngồi với nhau đến tận cuối chiều. Không rõ họ đã nói chuyện gì. Bà Tịa bảo lúc người đàn bà về, bà có ngờ ngợ nhưng không nhận ra ai. Và người đàn bà có vẻ vội vàng, bịt khăn trùm kín mặt trông như đã khóc.
 
Lời kết
Tôi, người ghi lại chuyện này từ lời kể của bà Tịa, con bà Tịa và vài người làng trong một buổi sáng qua cây cầu bắc gần bến ông Tô. Nhìn từ trên độ cao của cây cầu vào mùa lũ, quả đồi nhỏ nhà bà Tịa bị những vệt san ủi trông như con rùa bị mổ phanh từ phía lưng.
Đó là lần có trận lụt khủng khiếp xảy ra ở vùng này, trận lụt lớn vài chục năm mới có một bận. Cơn lũ quét dọc hai bên bờ sông, cuốn theo nhà cửa trôi lều bều, tiếng kêu cứu thảm thiết vang trên dòng sông tối lạnh. Vào lúc mọi nhà còn kinh hoàng be bịt cho mình và gia đình mình, ông Tô cùng con thuyền đã bơi trên sóng nước suốt đêm cứu được mấy mươi người. Nhưng như một lẽ bù trừ độc địa… không hiểu thế nào một người ngang dọc sông nước như ông lại bị lật thuyền đuối nước lúc gần sáng.
Khi tôi đi qua, cả một đoạn đường dài bị tắc, trắng xóa khăn tang. Và đám tang ông Tô là một sự kiện chưa từng có ở làng. Hàng nghìn người đến phúng viếng, đưa tiễn ông. Tôi cũng tham gia cùng đoàn người ấy. Trong những người chít khăn để tang ông có cả rất nhiều người được ông cứu sống và thân nhân của họ. Có một người đàn bà khoảng sáu mươi tuổi, đẹp lạ lùng đi cạnh linh cữu ông nhưng không rơi nước mắt. Bà Tịa bảo đó là bà Vân, sau đó kể lại cho tôi nghe câu chuyện về ông Tô, anh bà và mối tình với người đàn bà này.
Câu chuyện lẽ ra kết thúc ở đây, nhưng vừa rồi tôi nghe được một thông tin mới. Ấy là bà Vân, sau khi ông Tô ra đi, đã làm điện thờ tại nhà và xuống tóc tu tại gia. Tôi không có thời gian, điều kiện tìm hiểu thêm.
Âu chăng cũng là số phận?.

D.Q.H

Chuyện nhỏ ở bến sông

Chuyện nhỏ ở bến sông

PHÙNG VĂN KHAI

Dòng sông xuôi đến chân đồi thì đột nhiên chảy vòng lại. Bên kia, lởm chởm những đá tảng um tùm lau lách. Ngay chính giữa cồn, nổi lên một cái bè nhàu nhĩ mưa nắng. Buổi sáng, người đàn bà ăn mặc phong phanh tất bật bên mớ quần áo và cậu bé chừng sáu, bảy tuổi cởi truồng chạy lóc cóc trên những thân tre làm bè sát mép nước. Bè bập bềnh, trệu trạo càng làm chú bé phởn chí đùa giỡn. Người đàn bà ngoái đầu mắng con. Cậu bé càng nhảy tợn rồi bất ngờ lao tõm xuống dòng nước ngầu ngậu phù sa đỏ quánh. Sóng nước lóc bóc. Thằng bé ngoi lên cười sằng sặc. Bỗng nó im bặt, then lét leo lên bè líu ríu chỉ về phía mấy cây vầu giọng líu lại: “Người… có… người chết…”. Người đàn bà vội đứng dậy nhìn rồi bước sấn đến. Trời! Người chết! Mớ tóc bập bềnh, xấp xõa nhô ra hai bả vai và một phần lưng trắng hếu. Lũ cá mương tinh nghịch loạn xị xung quanh. Thằng bé trố mắt nhìn. Người đàn bà hốt hoảng: “Tuấn! Gọi bố ra ngay!”.

Trong lều có tiếng mắng. Một người đàn ông gầy đen nhếch nhác ngái ngủ bước ra. Theo sát đằng sau là con chó vàng và thằng bé. Người đàn bà chỉ tay về phía mớ tóc bập bềnh, giọng run rẩy: “Người chết kìa… thằng… Tuấn nó nhìn thấy”. Người đàn ông tỉnh hẳn, dụi mắt. Anh bước ngay đến, thảng thốt kêu lên: “Trời đất ơi! Sao lại chết trôi chết dạt vào nhà tôi thế này. Mình ơi, lấy cái chăn chiên ra đây”.

Mặt trời bắt đầu lên, khúc xạ xuống dòng sông những tia nắng ban mai. Thằng bé con đánh chiếc quần cộc lấm tấm mồ hôi chạy lăng xăng giúp bố. Người đàn ông trần trùng trục loay hoay đặt người xấu số ngay ngắn trên mặt bè. Người bị nạn tuổi trạc ba mươi, tầm thước, vẻ ưa nhìn, ăn mặc ra dáng người miền xuôi. Không một thứ giấy tờ tùy thân, không một vết thương hay gãy giập gì trên thi thể. Chỉ có một chi tiết lạ. Bàn tay người chết, tay trái thiếu một ngón, ngón cái. Nhưng là khuyết tật bẩm sinh. Bàn tay trái như chiếc xẻng xinh xắn khép hờ. Người đàn ông cẩn thận đặt đôi bàn tay người xấu số lên ngực như đang nằm ngủ, buồn rầu bảo vợ: “Lấy cái khăn tôi rửa mặt cho anh ấy rồi vào báo làng, mau lên”. Người đàn bà mang đến cái khăn xỉn màu nước ngàu. Chị nhìn ra mặt sông mênh mông rồi nhìn thằng bé con đang lui cui bên bố. Con chó vàng loanh quanh bên người đàn ông, thỉnh thoảng sủa gâu gâu hờ hững. Mặt lộ rõ vẻ đau thương, người đàn bà quả quyết: “Không phải báo ai anh ạ. Rồi lại rầy rà ra. Cứ để đến tối, ta đem anh ấy lên bờ chôn, ai biết đấy là đâu. Mình làm phúc chứ có gì đâu mà sợ”. Người đàn ông nhìn sững thấy vợ nói không phải không có lí. Thì dạo mới đến đây, anh đến chào làng, tìm chính quyền địa phương, xóm giềng thờ ơ, cảnh giác như thằng tù ở đâu đến. Ra khỏi cổng ủy ban, ông cán bộ còn đe thẳng thừng: “Anh lếu láo ở đâu đến đây lấn chiếm bến sông. Mai kia không biến khỏi đây, cho cờ đỏ dân quân ra đốt bè. Liệu thần hồn!”. Rồi thì cũng qua được cái sự đốt bè. Gia đình họ hiền lành, cũng là do trước đó bão lũ cướp sạch cơ ngơi tài sản mới phải dạt đến khúc quanh ở bến sông này. Chồng đánh cá, vợ bơi thuyền xuống hạ lưu buôn bán nhì nhằng qua ngày đoạn tháng. Đang êm êm thì bỗng đâu có người chết dạt về đây. Rồi tình hình biết ra làm sao? Sáng nay người đàn bà tính lên bờ vào xóm xin cho thằng bé năm nay được đi học. Nếu cần chị sẽ ra ủy ban, sẽ nói khó với các ông ấy, van xin các ông ấy như lần trước. Chị đã dành dụm được một ít tiền, những đồng tiền vất vả mồ hôi nước mắt của mình, nếu có phải đưa cho các ông ấy, chị cũng sẽ đưa hết, thậm chí là phải van xin. Mặc kệ, miễn là con được đi học. Thằng bé bảy tuổi, nó đã muộn học một năm... “Hay ta đẩy người kia đi. Trả lại dòng sông, đỡ rách việc, chứ không làng phát hiện lại khổ mình, chính quyền hạch sách lằng nhằng ra. Đằng nào thì anh ấy cũng đã chết” - người đàn bà ngập ngừng. “Không - người đàn ông nhìn vợ - đã chết trôi sông thế rồi. Không được đâu mình à. Làm thế ông giời bắt tội chết. Thôi, cứ đi để đấy tôi lo cho. Mình ăn cơm rồi lên bờ xin cho con đi học kẻo lại nhỡ. Cứ lấy hết tiền đem đi đi”.

Người đàn bà cun cút kéo thằng bé vào lều. Con chó thấy cậu chủ vào cũng bước theo. Sống với chồng đã lâu, chị quá hiểu sự tốt bụng và tính hay thương người của chồng. Mà sao cứ mãi cơ cực làm vậy? Hết tai ương nọ kéo đến tai ương kia. Toàn tai bay vạ gió. Liệu lần này… Chị không dám nghĩ tiếp xấp xoải đi lo việc học cho thằng bé. Thực ra, năm ngoái có thêm mấy trăm ngàn thì con chị đã học lớp một năm nay lên lớp hai. Năm ngoái, ông ủy ban bảo: “Đóng mấy trăm làm hộ khẩu đi. Rồi làm khai sinh cho thằng bé. Tên tuổi không có, học hành gì. Tiền phạt các loại là tám trăm”. Chị rưng rưng nhìn ông ủy ban thẽ thọt: “Cháu xin các ông. Tất cả nhà cháu chỉ còn gần sáu trăm, mong các ông thương chúng cháu”. Ông ủy ban gạt phắt tay chị, quát: “Đã thương còn không biết thì cho chết. Cút ngay đi để ông còn làm việc, chưa sáng ngày ra đã ám. Chúng mày thì cần gì học với hành, xéo ngay”.

Hôm ấy chị đã khóc. Mấy hôm sau chị vẫn còn uất, vẫn còn khóc. Khóc bởi trước đây chị và chồng từng được học hành, từng có chữ. Cái thời ấy đói bụng nhưng được học không mất tiền, không phải đi van đi lạy. Mà nó bỗng xa ngay được nhỉ. Đành phải cố kiếm tiền. Đành phải bóp mồm bóp miệng chờ đợi đến hôm nay. Thế mà mới sáng ra đã xảy đến cơ sự này. Không biết ông trời báo ứng ra điều gì nữa?
Người đàn bà bước lên bờ còn ngoái đầu nhìn lại. Căn lều nhỏ bập bềnh trôi trên chiếc bè vẹo vọ, sương gió đã bao năm. Chồng vẫn bàn với chị xin được cho thằng bé đi học rồi anh sẽ đóng cái lồng nuôi cá. Mát tay như anh, cá nào chẳng nuôi được. Rồi biết đâu mọi việc sẽ mỉm cười với vợ chồng anh.
*
*    *
Cổng ủy ban hiện ra dưới rặng cây. Cánh cổng sắt han gỉ vẫn đóng im ỉm. Người đàn bà tiến tới. Một con chó mực ở đâu bất thần xông ra. Người đàn bà hơi lùi lại. Nó không sủa không cắn mà nhìn chị có vẻ ngạc nhiên. Nó đi vòng quanh, hít hít, rồi nó lại đi vòng quanh. Hay nó đánh hơi thấy mùi xác chết còn luẩn quẩn từ người chị? Không, xác chết chả có liên quan gì ở đây. Chị cố xua đi những suy nghĩ vớ vẩn, mạnh dạn đẩy cánh cổng sắt. Cánh cổng rít lên ken két.
Chị lách vào bên trong.

Ông cán bộ ủy ban đến sớm, nhìn người đàn bà và nhận ra ngay. Dưới vẻ lam lũ, người đàn bà ấy vẫn ngời lên vẻ mạnh khỏe, rất nữ tính. Chị hơi đỏ mặt trước cái nhìn sỗ sàng, chào se sẽ: “Cháu… cháu chào ông ạ”. Ông ủy ban cười cười, càng nhìn chằm chằm vào vầng ngực mẩy căng của chị, ỡm ờ: “Đến xin cho thằng bé đi học hả, cô em. Còn sớm đấy, chưa ai đến đâu. Mà này, năm nay vào lớp một cũng phải xét. Không đi mẫu giáo là khó đấy. Lại quá tuổi. Tốn kém đấy cô em ạ”. Chị hoa mắt. Như thế là thế nào? Chị cố trấn tĩnh. Như thế tức là phải nộp phạt? Nộp phạt, chị sẵn sàng, miễn là con được đi học. Dù có phải vừa nộp phạt vừa van xin chị cũng sẵn sàng. Nhưng liệu số tiền năm nay có đủ? Nhà có ngần ấy tiền, chị mang đi hết. Tất cả là một triệu sáu, gấp đôi năm ngoái. Thì mọi thứ vật giá đều lên. Đến con cua con cá còn tăng giá. Chắc từng ấy sẽ đủ. Đó là số tiền hai vợ chồng chị dành dụm một năm trời.

Ông ủy ban thoắt biến mất từ lúc nào rồi hiện ra ngay sát khiến chị giật mình. Ông ta nói giọng rất ngọt: “Này, muốn cho con đi học thì vào đây. Không có lần thứ ba đâu”. Chị lí nhí cảm ơn rồi bước theo.
Trong phòng hơi tối. ông ủy ban bước vào phía sau bàn làm việc chất đầy giấy tờ sách báo, rồi ngồi xuống. Liền đó, có tiếng nói âm âm vang lên:
 “Ngồi xuống rồi trình bày đi”.
“Thưa ông, tôi xin các ông xét cho con tôi đi học”.
“Tốt lắm!”. Ông ta đứng dậy đi đến sát bên chị. Chị rùng mình trước cái nhìn sắc nhọn.

“Tôi đã biết về trường hợp của vợ chồng chị. Ăn ở như thế không được đâu. Việc ăn ở ấy mà, ai lại sống nơi sông nước hẻo lánh như thế. Mùa lũ năm ngoái, tỉnh ta hai mươi tám người chết. Rõ khổ”.
Chị run run nghĩ đến xác chết đang nằm trên bè nhà mình. Ông ủy ban đi lại vòng quanh như đánh giá về bản thân người đàn bà đang ở trước mặt mình.

“Các anh các chị bây giờ ăn ở vô tổ chức lắm. Chính quyền lơ mắt là lấn chiếm, rồi lại lu loa lên. Ở cắm sào mọc rễ ra mới khai báo, xin xỏ”.
Một bàn tay ươn ướt đặt lên vai chị, ông ta nói như phán quyết của quan tòa:
“Trường hợp nhà chị. Không đủ thủ tục giấy tờ, chúng tôi không giải quyết. Làm sai, ai chịu trách nhiệm. Chị biết không?”.

Chị biết không? Biết quá đi chứ! Thì mới năm ngoái, cũng ông ta đã bảo chị đưa tiền. Cơ mà ngày ấy số tiền không đủ để làm thủ tục để các ông ấy phạt. Năm nay chị biết, chị đã dành dụm gấp hai số tiền chắc là sẽ được. Nhưng sao lại nhìn mình thế? Hay là mình còn tội lỗi gì? Hay là các ông ủy ban biết ở bè nhà mình có người chết? Chị gạt phăng ý nghĩ đen đủi ấy và nghĩ tới con. Nghĩ tới con, chị can đảm hẳn. Chị nói một hơi khá mạch lạc:
“Chúng cháu xin các ông cho con chúng cháu được đi học. Chúng cháu biết sai rồi. Sai rất nhiều mục, rất nhiều khoản. Các ông cho vợ chồng cháu nộp phạt cho con. Cũng do thiên tai địch họa vợ chồng con cái mới phải tụ vạ ở khúc sông này. Chúng cháu thành tâm xin nhập khẩu, nhập tịch ở đây, nhưng năm ngoái chưa đủ tiền đóng, xin các ông cứ coi như là món tiền phạt những sai phạm, những sai trái của chúng cháu. Chỉ mong các ông thương cho con chúng cháu được đi học. Đây, cháu xin nộp phạt các ông toàn bộ”.

Ông ủy ban nhìn chị khẽ mỉm cười rồi sán đến gần hơn, vẫn với giọng phán quyết nhưng nhỏ hơn, có lúc như là mơn trớn, vuốt ve chị: “Cái cần ấy mà. Chị biết đấy. Tự chị nên biết. Thế này này...”. Ông ta xiết chặt hơn vai chị, ép vào người chị.

Chị bàng hoàng hiểu ngay sự tình. Khổ thế đấy. Nhục thế đấy. Có một cái gì cuồn cuộn từ đáy lòng chị bùng lên nhưng cuối cùng đã cố ghìm lại được, uất nghẹn: “Tôi van ông, tôi là gái đã có chồng, có con. Tôi lạy ông”. Ông ủy ban nén hậm hực, xốc lại cổ áo. Người đàn bà đã bình tĩnh hơn, nhìn thẳng vào ông ta, nói như van: “Xin các ông nhón tay làm phúc. Vợ chồng tôi dành dụm được có chừng này”. Chị tiến đến, đặt gói tiền lên mặt bàn. Ông ủy ban nghiêm chỉnh trở lại, nói đanh gọn: “Chị kia! Cầm tiền về! Chúng tôi sẽ xem xét giải quyết. Sáng nay tôi sẽ báo cáo chủ tịch xã, cán bộ và dân quân xuống kiểm tra. Về đi. Không phải mè nheo lắm lời lắm điều nữa”. Người đàn bà định nói một điều gì nữa nhưng không kịp. Gói tiền được ném trả vào tay chị và ông ủy ban quay gót bước ra ngoài.
Người đàn bà bước ra. Thì còn biết đi đâu ngoài việc trở lại căn lều trên chiếc bè ở bến sông.
*
*    *
Mặt trời lên cao, an nhiên chiếu những tia rực rỡ xuống dòng sông, xuống chiếc bè bập bềnh, lóa nhóa. Trên bè bây giờ chỉ còn hai bố con, con chó và xác người xấu số. Thằng bé con dạn dĩ nhìn xác chết. Nó nhìn rất lâu rồi đến bên người cha. Đột nhiên nó bảo: “Bố ơi! Hay là bố con mình đẩy chú ấy xuống dòng sông. Sông mát lắm, coi như là không ai nhìn thấy!”. Người cha nhìn con. Sông nước, nắng nôi, lam lũ đã sớm đè lên đôi vai thằng bé. Người cha chợt thấy nhói lên, không biết nói gì với con, chỉ bảo: “Thôi, cứ đợi mẹ về”. Con chó từ sáng chạy lăng xăng, thỉnh thoảng đến bên xác chết gâu gâu ơ hờ mấy tiếng rồi lại sán gần chỗ thằng bé. Thằng bé vuốt lưng con chó. Mắt thằng bé trong veo. Trời cao cũng trong veo không một gợn mây. Nắng rát, thằng bé chạy về sát vách lều tránh nắng nơi gần xác chết. Người xấu số nằm im. Nắng gió trời đã làm khô ráo anh ta. Vẻ mặt rất thanh thản, mắt nhắm, miệng mim mím, môi người chết còn tươi như mới nở một nụ cười. Đôi bàn tay nhỏ nhắn đặt ngay ngắn trên ngực. Bàn tay trái khuyết một ngón cái như chiếc bẹ hoa chuối xinh xắn. Dường như người này không còn vướng bận điều gì trên trần gian nữa. Chắc anh ta tự tìm đến cái chết. Ừ thì chết hẳn có gì đáng sợ. Ai chả phải chết một lần. Chết đi sống lại mới là cơ cực. Thằng bé lần đầu tiên bắt gặp người chết. Mới đầu nó sợ. Nó nghĩ tự nó phát hiện ra chú người chết này làm rách việc cả nhà. Mẹ nó hôm nay đi xin học cho nó không biết sẽ như thế nào? Có bị ám bởi chú ấy không? Rồi biết đâu người ta phát hiện ra xác chết bắt tội bắt tình bố mẹ nó rồi không cho nó đi học thì sao? Những câu hỏi quá sức trả lời của nó. Rồi thằng bé nghĩ, cũng chẳng sao. Bởi vì nó thấy chú ấy chết dạt vào bè nhà nó. Nó phải kêu lên. Ở việc này ai chả kêu lên. Người lớn hơn chắc họ cũng làm như thế. Người chết ở dưới sông không có ai vớt cá rỉa thì sao? Mấy lần tắm truồng thằng bé đã bị cá rỉa đít, cắn chân cắn tay, còn cắn cả vào chim. Bất giác thằng bé mỉm cười khi nghĩ đến chuyện bị cá cắn chim. Con chó vàng thấy cậu chủ cười cũng ngơ ngác, mắt long lanh lúc lắc cái đầu. Rồi như cậu chủ, con chó nhẫn nại ngồi bệt xuống nhìn ra mặt sông.

Người đàn ông đi vào trong lều. Anh ngồi xuống rồi đứng lên đi vơ vẩn. Căn lều nhỏ nằm trên chiếc bè bập bềnh theo bước chân. Bước đến góc lều chỗ cái bàn thờ có mấy chân hương lẻ loi, người đàn ông lục sục tìm một que hương châm lửa thắp, lầm rầm như nói với chính mình: “Anh bạn ơi! Anh sống khôn chết thiêng anh hiểu cho vợ chồng tôi, cho thằng bé nhà tôi. Hôm nay chúng tôi sẽ cố xin để được chôn anh ở trên bờ. Anh là ai. Anh ở đâu đến tôi không biết nhưng tôi sẽ cố lo một lần cuối cho anh. Khó khăn gì tôi cũng lo. Nói khéo với người ta là được thôi. Vợ tôi khéo lắm anh ạ. Bởi vì cô ấy thương tôi mới khổ. Ở nơi mênh mông trời nước này, vợ chồng tôi cũng khổ lắm anh ạ. Thằng bé nhà tôi. Cháu nó ngoan lắm. Lẽ ra nó đã đi học rồi. Chắc năm nay cháu sẽ được đi học. Anh khôn thiêng hãy phù hộ cho vợ chồng tôi và cháu. Tôi sẽ chôn cất mồ yên mả đẹp cho anh, sẽ thờ cúng anh ở khúc sông này. Sông ở đây trong và mát lắm. Anh ơi! Thú thật tôi cũng chỉ ao ước được như anh, nhưng còn thằng bé, còn vợ tôi, cô ấy tốt lắm…”.

Cứ thế, miên man, người đàn ông xì xụp khấn điều này điều khác. Xác chết ở ngoài kia có nghe anh nói không? Có hay không cũng chẳng sao. Đối với người chết, điều đó không quan trọng. Cũng như thằng bé, hoặc là đã không cần hiểu gì, hoặc là bắt đầu hiểu biết rất sơ khai, không rõ ràng những gì xảy đến là tốt lành hay tai họa. Hoặc như con chó cũng thế. Nó sủa cũng hiền, chỉ như vẻ đùa nghịch, như là ông bà chủ, cậu chủ bắt được một con cá lạ, một con cá to lần đầu tiên nó nhìn thấy nằm im lìm như vậy. Cũng có khi con chó nghĩ, cái ông khách này đến lạ, cứ nằm ì ra đấy chả nói năng chào hỏi gì ai. Không như những ông khách khác, hễ xuống bè là ngó nghiêng, quát tháo, tay xách những vật dài dài, đen đen thỉnh thoảng lại kêu lách cách chĩa vào nó cười cợt, hăm dọa. Chắc chắn ông khách này là ông khách hiền lành tử tế. Ông ấy có động cựa lạch cạch gì đâu. Đã nằm im suốt từ sáng tới giờ. Con chó cũng như thằng bé, cứ đi vào đi ra loanh quanh bên xác người xấu số, không biết đến những việc sắp xảy ra. Con chó không biết bàn tay thiếu ngón của người đàn ông, điều này làm sao nó biết được, có lẽ chỉ ông bố và cậu bé biết, nhưng hai người hoàn toàn im lặng.
*
*    *
Người đàn bà bước xuống lều. Nhìn vẻ mặt của chị, người đàn ông biết là đã hỏng việc. Cậu bé thấy mẹ về, sán ngay lại, vẻ mừng rỡ. Con chó chạy theo cậu chủ đuôi ve vẩy, mắt long lanh, ấm áp nhìn người đàn bà. Cậu bé hỏi: “Con có được đi học không?”. Người đàn bà nhìn con. Chị im lặng một lát rồi nhìn nhanh xác chết xoa đầu thằng bé: “Năm nay con sẽ được đi học. Bố mẹ lo cho con”. Cậu bé tớn lên, chạy băng ra đầu căn lều. Con chó lao theo cậu chủ. Đến bên xác chết, cả hai dừng lại. Người chết im lặng. Cậu bé lầm bầm: “Vàng này, tao sắp đi học. Mày chịu khó ở nhà một mình. Phải ngoan đấy”. Con chó hiểu ý cậu chủ, cứ nhảy lông tông. Trời nóng. Nắng rát. Cậu bé lao xuống nước. Con vàng lao theo, cả hai bơi mãi ra giữa dòng.

Người đàn bà vào nhà đặt cái nón xuống. “Không được việc phải không?” - người đàn ông hỏi. Người đàn bà lí nhí: “Họ đòi thủ tục”. “Họ có nhận tiền không?”. “Lẽ ra là nhận, song ông ấy trả lại”. Người đàn ông nhìn vợ, hiểu rất nhanh, khẽ gắt: “Chó má. Để mai anh lên xin”. Người đàn bà thở dài: “Khó lắm. Tí nữa các ông ấy xuống kiểm tra chỗ ở. Em sợ”. Im lặng. Cả hai nghĩ đến cái xác nằm ngoài kia. Lát nữa chính quyền đến ăn nói với các ông ấy thế nào. Người đàn bà ngập ngừng: “Hay ta đưa tạm anh ấy xuống sông, người ta đi mình lại vớt lên”. Người đàn ông gắt: “Đã bảo không được. Ta cứ nói thẳng sự thật, coi như trình báo chính quyền xem các ông ấy xử lí ra sao”. “Chỉ sợ rồi các ông ấy gây khó dễ lại thiệt con. Mấy hôm nữa khai giảng rồi mình ạ”. Người đàn ông không nói gì, gườm gườm nhìn ra phía cửa sông. Nơi ấy, lố nhố mấy bóng người. Đi đầu là ông ủy ban buổi sáng.

Đoàn công tác xuống bè. Ông ủy ban sững lại, bước thụt lùi, suýt nữa ngã lộn xuống sông. Định thần, ông ta quát: “Vợ chồng nhà này gớm nhỉ? Sao lại có xác người chết ở đây? Sao không trình báo chính quyền? To gan thật”. Vừa quát thị uy, ông ta vừa băm bổ lên bè, hai dân quân lấm lét nhìn xác chết. Xác chết im lặng. Thằng bé và con chó thấy toán người lạ lặng lẽ bơi vào bè. Nó vận chiếc quần cộc nâu còn ướt sũng. Nước rỏ tong tong. Con chó gườm gườm nhìn những người lạ mặt.

Người đàn ông và người đàn bà đã chui ra khỏi lều. Rất bình tĩnh, người đàn ông nhìn xác chết, tiến về phía ông cán bộ ủy ban, nói rành rọt: “Thưa ông, cái xác này mới dạt vào đây, chúng tôi vừa vớt lên. Có chính quyền ở đây, xin các ông giải quyết”. Ông ủy ban nhìn người đàn ông khinh khi, hất hàm mắng người đàn bà: “Chị kia, sao buổi sáng không khai báo, hả?”. Người đàn bà đứng sát chồng, nói cứng: “Tôi đi rồi nhà tôi mới phát hiện vớt lên. Lúc ấy tôi chưa biết”. “Chưa biết? - ông ủy ban chì chiết - các anh các chị còn biết đến ai. Được. Lập biên bản đưa hai người lên xã. Các người to gan quá đấy. Phen này bắt đi tù cho biết. Các cậu! Còn đứng đực ra đấy à. Lập biên bản rồi trói chúng nó lại”.

Hai anh dân quân thi hành mệnh lệnh cấp trên. Trong lúc ông ủy ban hí hoáy viết, họ tiến đến người đàn ông định trói. Người đàn ông gạt hai cậu dân quân ra, phẫn nộ: “Cái lí ở đâu thế! Chúng tôi làm gì nên tội? Người này chết dạt vào đây”. “Cãi hả?”. Ông ủy ban quắc mắt. “Trói! Tội đâu tao chịu. Định giết người cướp của à. Bắt quả tang còn già mồm con đĩ. Trói chúng nó lại”. Đến đây, người đàn ông không chịu được nữa, anh hất văng hai cậu dân quân, bước nhanh về phía góc lều, rút soạt con dao chém vầu to bản sắc lạnh lưỡi thép, gầm lên: “Có giỏi chúng mày vào đây. Thằng nào đụng đến vợ chồng tao, tao chém!”. Hai anh dân quân nhìn lưỡi thép lạnh nhoáng lên, rúm ró lui về một phía. Con chó thấy ông chủ phẫn nộ uất ức, nó nhe răng nhìn ông ủy ban xù lông gáy, cắn từng tiếng dõng dạc. Người đàn bà đứng đối diện giữa hai người. Ông ủy ban mặt tái dại, giọng líu nhưng vẫn một vẻ dậm dọa: “Chúng mày, chúng mày định làm loạn à. Giỏi lắm. Dám chống lại người thi hành công vụ. Rồi chúng mày biết tay ông. Về - ông ta khoát tay - về lấy súng ra cho chúng nó biết thế nào là lễ độ”.

Bỏ mặc vợ chồng người đàn ông với xác chết, ông ủy ban rút lên bờ, hai anh dân quân sợ hãi chạy theo. Trời đã gần trưa, nắng rát, người xấu số vẫn nằm dưới nắng. Người đàn ông đứng như trời trồng. Người đàn bà nhìn chồng, lại nhìn xác chết lo lắng. Chị đến, gỡ con dao từ tay anh cài lại lên vách nứa, bảo chồng: “Tôi van mình. Mình đừng nóng quá. Nóng rồi mẹ con tôi biết tính sao?”. Người đàn ông im lặng nhìn vợ. Đầu anh như nổ tung ra. Mọi chuyện tại sao lại rối tung lên. Rồi bất thần, anh bảo vợ: “Mình cứ ở đây. Tôi vào trong làng. Không thể để họ vu oan mình được”. Người đàn ông đi, không kịp nghe người đàn bà dặn với: “Cẩn thận. Biết dân làng có ủng hộ mình không?”.

Một lúc sau lại xuất hiện đám người lố nhố tiến về phía bờ sông. Lần này dẫn đầu là vị chủ tịch. Trời nắng gắt. Đám người mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mặt mũi hầm hầm bước thẳng xuống căn lều. Thằng bé lủi vào trong. Chỉ duy con chó vàng đứng sát bên người đàn bà dõng dạc gâu lên từng tiếng vang đanh.

Ông ủy ban và vị chủ tịch xuống bè. Một loạt dân quân, có cả một y sĩ tiến theo. Nhìn lướt nhanh xác chết, vị chủ tịch lắc đầu, giọng đầy thương cảm: “Khổ thân tôi không. Sao các chị các anh tắc trách thế. Có người chết không báo cáo lại cầm dao cầm gậy chống lại chính quyền. Khổ thân anh kia. Nào, mời vợ chồng anh chị chủ ra đây, chúng ta cùng giải quyết”.

Người đàn bà tiến đến trước mặt vị chủ tịch.
“Chúng tôi không có tội. Chồng tôi không giết người. Anh này xấu số thiệt phận dạt vào đây. Có trời cao đất dày chứng kiến. Các ông không được làm gì chồng tôi!”. Vị chủ tịch khoát tay, viên y sĩ tiến tới xác chết loay hoay khám nghiệm, mặt mày khá căng thẳng. Trời nắng, xác chết đã bắt đầu bốc mùi khiến anh này nhăn mặt. Một lúc, anh y sĩ đến bên vị chủ tịch: “Báo cáo anh, không có thương tích gì. Chết là do đuối nước. Đã bốc mùi”. Vị chủ tịch kín đáo nhìn xác chết, mắt dừng lại ở đôi bàn tay ra lệnh: “Cứ biết thế đã. Về họp rồi sẽ tính. Chị kia? Chồng chị đã trốn rồi phải không?”. “Ông nói gì? Nhà tôi việc gì phải trốn?”. “Thế thì đâu? Chồng chị mắc tội chống người thi hành công vụ. Lại còn việc thằng bé nữa. Các người thật chả biết trời cao đất dày gì cả!”.

Lại một đám người nữa xuất hiện tiến xuống bè. Lần này, đi đầu là người đàn ông và một ông già râu tóc bạc phơ, đằng sau hơn chục người dân và mấy đứa trẻ. Vị chủ tịch chợt sững người khi nhận ra ông già - người thầy vỡ lòng khi xưa của mình. Ông ủy ban ra lệnh đanh gọn: “Dân quân! Còng tay nó lại!”. Loáng cái, một anh dân quân móc ra cái còng số tám. Vị chủ tịch giơ tay ra hiệu khoan đã. Rất nhanh, ông già tiến lên: “Các anh không có quyền bắt người vô lối như thế. Hãy xem đầu đuôi sự thể thế nào đã”. Vị chủ tịch cũng bước tới: “Các cậu hãy lui ra. Ở đây có bà con nhân dân mà dám làm thế à. Này anh kia. Xác chết với anh là như thế nào, hả? Phải nói đúng sự thật”.

Người đàn ông đứng yên, sát bên ông già râu tóc trắng, thuật lại sự việc. Ông già lên tiếng: “Thưa các anh chính quyền, dân vùng này, năm nào chả có xác người chết đuối trên thượng nguồn dạt xuống. Họ vớt rồi khâm liệm, xin lên đất liền chôn. Ai không máu đỏ da vàng, cùng nòi cùng giống. Anh này đâu có tội tình gì. Chỉ vì dân làng đã từ lâu lùi mãi vào trong đê, nên ngoài bối không có ai vớt những người xấu số. Các anh làm chính quyền, phải hiểu điều đó chứ. Thế mà đem cả súng ống ra đây. Các anh có tội đấy”. Ông già nói một hơi, chòm râu rung lên trong nắng gió. Những người dân im phăng phắc. Người đàn bà cứ đứng nhìn mãi ông già, từ khóe mắt chị, những giọt nước mắt lăn dài xuống.

Vị chủ tịch đợi ông già nói xong, bước lên mấy bước, nói to với mọi người: “Cụ nói rất đúng, nhưng có người chết không phải chuyện đùa, phải báo cáo cấp trên. Bây giờ, mọi người cùng giải tán. Hai cậu dân quân ở đây canh xác chết. Còn lại về triệu tập họp để báo cáo lên trên. Anh kia - vị chủ tịch chỉ tay vào người đàn ông - anh đi cùng chúng tôi về ủy ban”.

Người đàn ông nhìn vợ rồi nhìn ông già như có ý hỏi có nên đi hay không. Người đàn bà bối rối chưa biết nói gì thì ông già đã bảo: “Anh cứ đi. Các anh dân quân cũng đi về đi. Không phải canh giữ gì đâu. Mọi việc ở đây chúng tôi lo. Chính quyền các anh có họp hành gì thì cũng nhanh nhanh cho. Nào bà con, chúng ta mỗi người một tay khâm liệm cho người ta. Giữa buổi chiều nay, chính quyền chưa họp xong bà con ta cũng phải chôn cất cho tử tế. Mấy cậu thanh niên đi đào cho tôi cái huyệt ở khu mộ của làng. Mấy cậu nữa về nhà tôi lấy bộ ván của tôi đem ra đây. Còn anh - ông già chỉ vào người đàn ông - anh cứ nói đúng sự thật rồi về đây. Xong việc này, mai kia còn lo cho thằng bé đi học”.

Ông già nói nhỏ, trầm nhưng rõ ràng, khúc chiết.
Mọi người lục tục kéo đi.
*
*    *
Trời chuyển sang chiều. Những đám mây quây quần dắt nhau bay làm dịu những tia nắng. Dòng sông mở ra mênh mang. Nắng xuyên mây rọi xuống tóc, xuống râu ông già. Ông ngồi bên người xấu số, như một người cha bên đứa con mình. Ngay cạnh đấy, người đàn bà bó gối ngồi nhìn dòng sông đang chảy. Thỉnh thoảng, chị nhìn thằng bé con ngồi với con chó đang im lặng  

P.V.K