Dòng sông xuôi đến chân đồi thì đột nhiên chảy vòng lại. Bên kia, lởm chởm những đá tảng um tùm lau lách. Ngay chính giữa cồn, nổi lên một cái bè nhàu nhĩ mưa nắng. Buổi sáng, người đàn bà ăn mặc phong phanh tất bật bên mớ quần áo và cậu bé chừng sáu, bảy tuổi cởi truồng chạy lóc cóc trên những thân tre làm bè sát mép nước. Bè bập bềnh, trệu trạo càng làm chú bé phởn chí đùa giỡn. Người đàn bà ngoái đầu mắng con. Cậu bé càng nhảy tợn rồi bất ngờ lao tõm xuống dòng nước ngầu ngậu phù sa đỏ quánh. Sóng nước lóc bóc. Thằng bé ngoi lên cười sằng sặc. Bỗng nó im bặt, then lét leo lên bè líu ríu chỉ về phía mấy cây vầu giọng líu lại: “Người… có… người chết…”. Người đàn bà vội đứng dậy nhìn rồi bước sấn đến. Trời! Người chết! Mớ tóc bập bềnh, xấp xõa nhô ra hai bả vai và một phần lưng trắng hếu. Lũ cá mương tinh nghịch loạn xị xung quanh. Thằng bé trố mắt nhìn. Người đàn bà hốt hoảng: “Tuấn! Gọi bố ra ngay!”.
Trong lều có tiếng mắng. Một người đàn ông gầy đen nhếch nhác ngái ngủ bước ra. Theo sát đằng sau là con chó vàng và thằng bé. Người đàn bà chỉ tay về phía mớ tóc bập bềnh, giọng run rẩy: “Người chết kìa… thằng… Tuấn nó nhìn thấy”. Người đàn ông tỉnh hẳn, dụi mắt. Anh bước ngay đến, thảng thốt kêu lên: “Trời đất ơi! Sao lại chết trôi chết dạt vào nhà tôi thế này. Mình ơi, lấy cái chăn chiên ra đây”.
Mặt trời bắt đầu lên, khúc xạ xuống dòng sông những tia nắng ban mai. Thằng bé con đánh chiếc quần cộc lấm tấm mồ hôi chạy lăng xăng giúp bố. Người đàn ông trần trùng trục loay hoay đặt người xấu số ngay ngắn trên mặt bè. Người bị nạn tuổi trạc ba mươi, tầm thước, vẻ ưa nhìn, ăn mặc ra dáng người miền xuôi. Không một thứ giấy tờ tùy thân, không một vết thương hay gãy giập gì trên thi thể. Chỉ có một chi tiết lạ. Bàn tay người chết, tay trái thiếu một ngón, ngón cái. Nhưng là khuyết tật bẩm sinh. Bàn tay trái như chiếc xẻng xinh xắn khép hờ. Người đàn ông cẩn thận đặt đôi bàn tay người xấu số lên ngực như đang nằm ngủ, buồn rầu bảo vợ: “Lấy cái khăn tôi rửa mặt cho anh ấy rồi vào báo làng, mau lên”. Người đàn bà mang đến cái khăn xỉn màu nước ngàu. Chị nhìn ra mặt sông mênh mông rồi nhìn thằng bé con đang lui cui bên bố. Con chó vàng loanh quanh bên người đàn ông, thỉnh thoảng sủa gâu gâu hờ hững. Mặt lộ rõ vẻ đau thương, người đàn bà quả quyết: “Không phải báo ai anh ạ. Rồi lại rầy rà ra. Cứ để đến tối, ta đem anh ấy lên bờ chôn, ai biết đấy là đâu. Mình làm phúc chứ có gì đâu mà sợ”. Người đàn ông nhìn sững thấy vợ nói không phải không có lí. Thì dạo mới đến đây, anh đến chào làng, tìm chính quyền địa phương, xóm giềng thờ ơ, cảnh giác như thằng tù ở đâu đến. Ra khỏi cổng ủy ban, ông cán bộ còn đe thẳng thừng: “Anh lếu láo ở đâu đến đây lấn chiếm bến sông. Mai kia không biến khỏi đây, cho cờ đỏ dân quân ra đốt bè. Liệu thần hồn!”. Rồi thì cũng qua được cái sự đốt bè. Gia đình họ hiền lành, cũng là do trước đó bão lũ cướp sạch cơ ngơi tài sản mới phải dạt đến khúc quanh ở bến sông này. Chồng đánh cá, vợ bơi thuyền xuống hạ lưu buôn bán nhì nhằng qua ngày đoạn tháng. Đang êm êm thì bỗng đâu có người chết dạt về đây. Rồi tình hình biết ra làm sao? Sáng nay người đàn bà tính lên bờ vào xóm xin cho thằng bé năm nay được đi học. Nếu cần chị sẽ ra ủy ban, sẽ nói khó với các ông ấy, van xin các ông ấy như lần trước. Chị đã dành dụm được một ít tiền, những đồng tiền vất vả mồ hôi nước mắt của mình, nếu có phải đưa cho các ông ấy, chị cũng sẽ đưa hết, thậm chí là phải van xin. Mặc kệ, miễn là con được đi học. Thằng bé bảy tuổi, nó đã muộn học một năm... “Hay ta đẩy người kia đi. Trả lại dòng sông, đỡ rách việc, chứ không làng phát hiện lại khổ mình, chính quyền hạch sách lằng nhằng ra. Đằng nào thì anh ấy cũng đã chết” - người đàn bà ngập ngừng. “Không - người đàn ông nhìn vợ - đã chết trôi sông thế rồi. Không được đâu mình à. Làm thế ông giời bắt tội chết. Thôi, cứ đi để đấy tôi lo cho. Mình ăn cơm rồi lên bờ xin cho con đi học kẻo lại nhỡ. Cứ lấy hết tiền đem đi đi”.
Người đàn bà cun cút kéo thằng bé vào lều. Con chó thấy cậu chủ vào cũng bước theo. Sống với chồng đã lâu, chị quá hiểu sự tốt bụng và tính hay thương người của chồng. Mà sao cứ mãi cơ cực làm vậy? Hết tai ương nọ kéo đến tai ương kia. Toàn tai bay vạ gió. Liệu lần này… Chị không dám nghĩ tiếp xấp xoải đi lo việc học cho thằng bé. Thực ra, năm ngoái có thêm mấy trăm ngàn thì con chị đã học lớp một năm nay lên lớp hai. Năm ngoái, ông ủy ban bảo: “Đóng mấy trăm làm hộ khẩu đi. Rồi làm khai sinh cho thằng bé. Tên tuổi không có, học hành gì. Tiền phạt các loại là tám trăm”. Chị rưng rưng nhìn ông ủy ban thẽ thọt: “Cháu xin các ông. Tất cả nhà cháu chỉ còn gần sáu trăm, mong các ông thương chúng cháu”. Ông ủy ban gạt phắt tay chị, quát: “Đã thương còn không biết thì cho chết. Cút ngay đi để ông còn làm việc, chưa sáng ngày ra đã ám. Chúng mày thì cần gì học với hành, xéo ngay”.
Hôm ấy chị đã khóc. Mấy hôm sau chị vẫn còn uất, vẫn còn khóc. Khóc bởi trước đây chị và chồng từng được học hành, từng có chữ. Cái thời ấy đói bụng nhưng được học không mất tiền, không phải đi van đi lạy. Mà nó bỗng xa ngay được nhỉ. Đành phải cố kiếm tiền. Đành phải bóp mồm bóp miệng chờ đợi đến hôm nay. Thế mà mới sáng ra đã xảy đến cơ sự này. Không biết ông trời báo ứng ra điều gì nữa?
Người đàn bà bước lên bờ còn ngoái đầu nhìn lại. Căn lều nhỏ bập bềnh trôi trên chiếc bè vẹo vọ, sương gió đã bao năm. Chồng vẫn bàn với chị xin được cho thằng bé đi học rồi anh sẽ đóng cái lồng nuôi cá. Mát tay như anh, cá nào chẳng nuôi được. Rồi biết đâu mọi việc sẽ mỉm cười với vợ chồng anh.
Hôm ấy chị đã khóc. Mấy hôm sau chị vẫn còn uất, vẫn còn khóc. Khóc bởi trước đây chị và chồng từng được học hành, từng có chữ. Cái thời ấy đói bụng nhưng được học không mất tiền, không phải đi van đi lạy. Mà nó bỗng xa ngay được nhỉ. Đành phải cố kiếm tiền. Đành phải bóp mồm bóp miệng chờ đợi đến hôm nay. Thế mà mới sáng ra đã xảy đến cơ sự này. Không biết ông trời báo ứng ra điều gì nữa?
Người đàn bà bước lên bờ còn ngoái đầu nhìn lại. Căn lều nhỏ bập bềnh trôi trên chiếc bè vẹo vọ, sương gió đã bao năm. Chồng vẫn bàn với chị xin được cho thằng bé đi học rồi anh sẽ đóng cái lồng nuôi cá. Mát tay như anh, cá nào chẳng nuôi được. Rồi biết đâu mọi việc sẽ mỉm cười với vợ chồng anh.
*
* *
* *
Cổng ủy ban hiện ra dưới rặng cây. Cánh cổng sắt han gỉ vẫn đóng im ỉm. Người đàn bà tiến tới. Một con chó mực ở đâu bất thần xông ra. Người đàn bà hơi lùi lại. Nó không sủa không cắn mà nhìn chị có vẻ ngạc nhiên. Nó đi vòng quanh, hít hít, rồi nó lại đi vòng quanh. Hay nó đánh hơi thấy mùi xác chết còn luẩn quẩn từ người chị? Không, xác chết chả có liên quan gì ở đây. Chị cố xua đi những suy nghĩ vớ vẩn, mạnh dạn đẩy cánh cổng sắt. Cánh cổng rít lên ken két.
Chị lách vào bên trong.
Ông cán bộ ủy ban đến sớm, nhìn người đàn bà và nhận ra ngay. Dưới vẻ lam lũ, người đàn bà ấy vẫn ngời lên vẻ mạnh khỏe, rất nữ tính. Chị hơi đỏ mặt trước cái nhìn sỗ sàng, chào se sẽ: “Cháu… cháu chào ông ạ”. Ông ủy ban cười cười, càng nhìn chằm chằm vào vầng ngực mẩy căng của chị, ỡm ờ: “Đến xin cho thằng bé đi học hả, cô em. Còn sớm đấy, chưa ai đến đâu. Mà này, năm nay vào lớp một cũng phải xét. Không đi mẫu giáo là khó đấy. Lại quá tuổi. Tốn kém đấy cô em ạ”. Chị hoa mắt. Như thế là thế nào? Chị cố trấn tĩnh. Như thế tức là phải nộp phạt? Nộp phạt, chị sẵn sàng, miễn là con được đi học. Dù có phải vừa nộp phạt vừa van xin chị cũng sẵn sàng. Nhưng liệu số tiền năm nay có đủ? Nhà có ngần ấy tiền, chị mang đi hết. Tất cả là một triệu sáu, gấp đôi năm ngoái. Thì mọi thứ vật giá đều lên. Đến con cua con cá còn tăng giá. Chắc từng ấy sẽ đủ. Đó là số tiền hai vợ chồng chị dành dụm một năm trời.
Ông ủy ban thoắt biến mất từ lúc nào rồi hiện ra ngay sát khiến chị giật mình. Ông ta nói giọng rất ngọt: “Này, muốn cho con đi học thì vào đây. Không có lần thứ ba đâu”. Chị lí nhí cảm ơn rồi bước theo.
Trong phòng hơi tối. ông ủy ban bước vào phía sau bàn làm việc chất đầy giấy tờ sách báo, rồi ngồi xuống. Liền đó, có tiếng nói âm âm vang lên:
“Ngồi xuống rồi trình bày đi”.
“Thưa ông, tôi xin các ông xét cho con tôi đi học”.
“Tốt lắm!”. Ông ta đứng dậy đi đến sát bên chị. Chị rùng mình trước cái nhìn sắc nhọn.
“Tôi đã biết về trường hợp của vợ chồng chị. Ăn ở như thế không được đâu. Việc ăn ở ấy mà, ai lại sống nơi sông nước hẻo lánh như thế. Mùa lũ năm ngoái, tỉnh ta hai mươi tám người chết. Rõ khổ”.
Chị run run nghĩ đến xác chết đang nằm trên bè nhà mình. Ông ủy ban đi lại vòng quanh như đánh giá về bản thân người đàn bà đang ở trước mặt mình.
“Các anh các chị bây giờ ăn ở vô tổ chức lắm. Chính quyền lơ mắt là lấn chiếm, rồi lại lu loa lên. Ở cắm sào mọc rễ ra mới khai báo, xin xỏ”.
Một bàn tay ươn ướt đặt lên vai chị, ông ta nói như phán quyết của quan tòa:
“Trường hợp nhà chị. Không đủ thủ tục giấy tờ, chúng tôi không giải quyết. Làm sai, ai chịu trách nhiệm. Chị biết không?”.
Chị biết không? Biết quá đi chứ! Thì mới năm ngoái, cũng ông ta đã bảo chị đưa tiền. Cơ mà ngày ấy số tiền không đủ để làm thủ tục để các ông ấy phạt. Năm nay chị biết, chị đã dành dụm gấp hai số tiền chắc là sẽ được. Nhưng sao lại nhìn mình thế? Hay là mình còn tội lỗi gì? Hay là các ông ủy ban biết ở bè nhà mình có người chết? Chị gạt phăng ý nghĩ đen đủi ấy và nghĩ tới con. Nghĩ tới con, chị can đảm hẳn. Chị nói một hơi khá mạch lạc:
“Chúng cháu xin các ông cho con chúng cháu được đi học. Chúng cháu biết sai rồi. Sai rất nhiều mục, rất nhiều khoản. Các ông cho vợ chồng cháu nộp phạt cho con. Cũng do thiên tai địch họa vợ chồng con cái mới phải tụ vạ ở khúc sông này. Chúng cháu thành tâm xin nhập khẩu, nhập tịch ở đây, nhưng năm ngoái chưa đủ tiền đóng, xin các ông cứ coi như là món tiền phạt những sai phạm, những sai trái của chúng cháu. Chỉ mong các ông thương cho con chúng cháu được đi học. Đây, cháu xin nộp phạt các ông toàn bộ”.
Ông ủy ban nhìn chị khẽ mỉm cười rồi sán đến gần hơn, vẫn với giọng phán quyết nhưng nhỏ hơn, có lúc như là mơn trớn, vuốt ve chị: “Cái cần ấy mà. Chị biết đấy. Tự chị nên biết. Thế này này...”. Ông ta xiết chặt hơn vai chị, ép vào người chị.
Chị bàng hoàng hiểu ngay sự tình. Khổ thế đấy. Nhục thế đấy. Có một cái gì cuồn cuộn từ đáy lòng chị bùng lên nhưng cuối cùng đã cố ghìm lại được, uất nghẹn: “Tôi van ông, tôi là gái đã có chồng, có con. Tôi lạy ông”. Ông ủy ban nén hậm hực, xốc lại cổ áo. Người đàn bà đã bình tĩnh hơn, nhìn thẳng vào ông ta, nói như van: “Xin các ông nhón tay làm phúc. Vợ chồng tôi dành dụm được có chừng này”. Chị tiến đến, đặt gói tiền lên mặt bàn. Ông ủy ban nghiêm chỉnh trở lại, nói đanh gọn: “Chị kia! Cầm tiền về! Chúng tôi sẽ xem xét giải quyết. Sáng nay tôi sẽ báo cáo chủ tịch xã, cán bộ và dân quân xuống kiểm tra. Về đi. Không phải mè nheo lắm lời lắm điều nữa”. Người đàn bà định nói một điều gì nữa nhưng không kịp. Gói tiền được ném trả vào tay chị và ông ủy ban quay gót bước ra ngoài.
Người đàn bà bước ra. Thì còn biết đi đâu ngoài việc trở lại căn lều trên chiếc bè ở bến sông.
Chị lách vào bên trong.
Ông cán bộ ủy ban đến sớm, nhìn người đàn bà và nhận ra ngay. Dưới vẻ lam lũ, người đàn bà ấy vẫn ngời lên vẻ mạnh khỏe, rất nữ tính. Chị hơi đỏ mặt trước cái nhìn sỗ sàng, chào se sẽ: “Cháu… cháu chào ông ạ”. Ông ủy ban cười cười, càng nhìn chằm chằm vào vầng ngực mẩy căng của chị, ỡm ờ: “Đến xin cho thằng bé đi học hả, cô em. Còn sớm đấy, chưa ai đến đâu. Mà này, năm nay vào lớp một cũng phải xét. Không đi mẫu giáo là khó đấy. Lại quá tuổi. Tốn kém đấy cô em ạ”. Chị hoa mắt. Như thế là thế nào? Chị cố trấn tĩnh. Như thế tức là phải nộp phạt? Nộp phạt, chị sẵn sàng, miễn là con được đi học. Dù có phải vừa nộp phạt vừa van xin chị cũng sẵn sàng. Nhưng liệu số tiền năm nay có đủ? Nhà có ngần ấy tiền, chị mang đi hết. Tất cả là một triệu sáu, gấp đôi năm ngoái. Thì mọi thứ vật giá đều lên. Đến con cua con cá còn tăng giá. Chắc từng ấy sẽ đủ. Đó là số tiền hai vợ chồng chị dành dụm một năm trời.
Ông ủy ban thoắt biến mất từ lúc nào rồi hiện ra ngay sát khiến chị giật mình. Ông ta nói giọng rất ngọt: “Này, muốn cho con đi học thì vào đây. Không có lần thứ ba đâu”. Chị lí nhí cảm ơn rồi bước theo.
Trong phòng hơi tối. ông ủy ban bước vào phía sau bàn làm việc chất đầy giấy tờ sách báo, rồi ngồi xuống. Liền đó, có tiếng nói âm âm vang lên:
“Ngồi xuống rồi trình bày đi”.
“Thưa ông, tôi xin các ông xét cho con tôi đi học”.
“Tốt lắm!”. Ông ta đứng dậy đi đến sát bên chị. Chị rùng mình trước cái nhìn sắc nhọn.
“Tôi đã biết về trường hợp của vợ chồng chị. Ăn ở như thế không được đâu. Việc ăn ở ấy mà, ai lại sống nơi sông nước hẻo lánh như thế. Mùa lũ năm ngoái, tỉnh ta hai mươi tám người chết. Rõ khổ”.
Chị run run nghĩ đến xác chết đang nằm trên bè nhà mình. Ông ủy ban đi lại vòng quanh như đánh giá về bản thân người đàn bà đang ở trước mặt mình.
“Các anh các chị bây giờ ăn ở vô tổ chức lắm. Chính quyền lơ mắt là lấn chiếm, rồi lại lu loa lên. Ở cắm sào mọc rễ ra mới khai báo, xin xỏ”.
Một bàn tay ươn ướt đặt lên vai chị, ông ta nói như phán quyết của quan tòa:
“Trường hợp nhà chị. Không đủ thủ tục giấy tờ, chúng tôi không giải quyết. Làm sai, ai chịu trách nhiệm. Chị biết không?”.
Chị biết không? Biết quá đi chứ! Thì mới năm ngoái, cũng ông ta đã bảo chị đưa tiền. Cơ mà ngày ấy số tiền không đủ để làm thủ tục để các ông ấy phạt. Năm nay chị biết, chị đã dành dụm gấp hai số tiền chắc là sẽ được. Nhưng sao lại nhìn mình thế? Hay là mình còn tội lỗi gì? Hay là các ông ủy ban biết ở bè nhà mình có người chết? Chị gạt phăng ý nghĩ đen đủi ấy và nghĩ tới con. Nghĩ tới con, chị can đảm hẳn. Chị nói một hơi khá mạch lạc:
“Chúng cháu xin các ông cho con chúng cháu được đi học. Chúng cháu biết sai rồi. Sai rất nhiều mục, rất nhiều khoản. Các ông cho vợ chồng cháu nộp phạt cho con. Cũng do thiên tai địch họa vợ chồng con cái mới phải tụ vạ ở khúc sông này. Chúng cháu thành tâm xin nhập khẩu, nhập tịch ở đây, nhưng năm ngoái chưa đủ tiền đóng, xin các ông cứ coi như là món tiền phạt những sai phạm, những sai trái của chúng cháu. Chỉ mong các ông thương cho con chúng cháu được đi học. Đây, cháu xin nộp phạt các ông toàn bộ”.
Ông ủy ban nhìn chị khẽ mỉm cười rồi sán đến gần hơn, vẫn với giọng phán quyết nhưng nhỏ hơn, có lúc như là mơn trớn, vuốt ve chị: “Cái cần ấy mà. Chị biết đấy. Tự chị nên biết. Thế này này...”. Ông ta xiết chặt hơn vai chị, ép vào người chị.
Chị bàng hoàng hiểu ngay sự tình. Khổ thế đấy. Nhục thế đấy. Có một cái gì cuồn cuộn từ đáy lòng chị bùng lên nhưng cuối cùng đã cố ghìm lại được, uất nghẹn: “Tôi van ông, tôi là gái đã có chồng, có con. Tôi lạy ông”. Ông ủy ban nén hậm hực, xốc lại cổ áo. Người đàn bà đã bình tĩnh hơn, nhìn thẳng vào ông ta, nói như van: “Xin các ông nhón tay làm phúc. Vợ chồng tôi dành dụm được có chừng này”. Chị tiến đến, đặt gói tiền lên mặt bàn. Ông ủy ban nghiêm chỉnh trở lại, nói đanh gọn: “Chị kia! Cầm tiền về! Chúng tôi sẽ xem xét giải quyết. Sáng nay tôi sẽ báo cáo chủ tịch xã, cán bộ và dân quân xuống kiểm tra. Về đi. Không phải mè nheo lắm lời lắm điều nữa”. Người đàn bà định nói một điều gì nữa nhưng không kịp. Gói tiền được ném trả vào tay chị và ông ủy ban quay gót bước ra ngoài.
Người đàn bà bước ra. Thì còn biết đi đâu ngoài việc trở lại căn lều trên chiếc bè ở bến sông.
*
* *
* *
Mặt trời lên cao, an nhiên chiếu những tia rực rỡ xuống dòng sông, xuống chiếc bè bập bềnh, lóa nhóa. Trên bè bây giờ chỉ còn hai bố con, con chó và xác người xấu số. Thằng bé con dạn dĩ nhìn xác chết. Nó nhìn rất lâu rồi đến bên người cha. Đột nhiên nó bảo: “Bố ơi! Hay là bố con mình đẩy chú ấy xuống dòng sông. Sông mát lắm, coi như là không ai nhìn thấy!”. Người cha nhìn con. Sông nước, nắng nôi, lam lũ đã sớm đè lên đôi vai thằng bé. Người cha chợt thấy nhói lên, không biết nói gì với con, chỉ bảo: “Thôi, cứ đợi mẹ về”. Con chó từ sáng chạy lăng xăng, thỉnh thoảng đến bên xác chết gâu gâu ơ hờ mấy tiếng rồi lại sán gần chỗ thằng bé. Thằng bé vuốt lưng con chó. Mắt thằng bé trong veo. Trời cao cũng trong veo không một gợn mây. Nắng rát, thằng bé chạy về sát vách lều tránh nắng nơi gần xác chết. Người xấu số nằm im. Nắng gió trời đã làm khô ráo anh ta. Vẻ mặt rất thanh thản, mắt nhắm, miệng mim mím, môi người chết còn tươi như mới nở một nụ cười. Đôi bàn tay nhỏ nhắn đặt ngay ngắn trên ngực. Bàn tay trái khuyết một ngón cái như chiếc bẹ hoa chuối xinh xắn. Dường như người này không còn vướng bận điều gì trên trần gian nữa. Chắc anh ta tự tìm đến cái chết. Ừ thì chết hẳn có gì đáng sợ. Ai chả phải chết một lần. Chết đi sống lại mới là cơ cực. Thằng bé lần đầu tiên bắt gặp người chết. Mới đầu nó sợ. Nó nghĩ tự nó phát hiện ra chú người chết này làm rách việc cả nhà. Mẹ nó hôm nay đi xin học cho nó không biết sẽ như thế nào? Có bị ám bởi chú ấy không? Rồi biết đâu người ta phát hiện ra xác chết bắt tội bắt tình bố mẹ nó rồi không cho nó đi học thì sao? Những câu hỏi quá sức trả lời của nó. Rồi thằng bé nghĩ, cũng chẳng sao. Bởi vì nó thấy chú ấy chết dạt vào bè nhà nó. Nó phải kêu lên. Ở việc này ai chả kêu lên. Người lớn hơn chắc họ cũng làm như thế. Người chết ở dưới sông không có ai vớt cá rỉa thì sao? Mấy lần tắm truồng thằng bé đã bị cá rỉa đít, cắn chân cắn tay, còn cắn cả vào chim. Bất giác thằng bé mỉm cười khi nghĩ đến chuyện bị cá cắn chim. Con chó vàng thấy cậu chủ cười cũng ngơ ngác, mắt long lanh lúc lắc cái đầu. Rồi như cậu chủ, con chó nhẫn nại ngồi bệt xuống nhìn ra mặt sông.
Người đàn ông đi vào trong lều. Anh ngồi xuống rồi đứng lên đi vơ vẩn. Căn lều nhỏ nằm trên chiếc bè bập bềnh theo bước chân. Bước đến góc lều chỗ cái bàn thờ có mấy chân hương lẻ loi, người đàn ông lục sục tìm một que hương châm lửa thắp, lầm rầm như nói với chính mình: “Anh bạn ơi! Anh sống khôn chết thiêng anh hiểu cho vợ chồng tôi, cho thằng bé nhà tôi. Hôm nay chúng tôi sẽ cố xin để được chôn anh ở trên bờ. Anh là ai. Anh ở đâu đến tôi không biết nhưng tôi sẽ cố lo một lần cuối cho anh. Khó khăn gì tôi cũng lo. Nói khéo với người ta là được thôi. Vợ tôi khéo lắm anh ạ. Bởi vì cô ấy thương tôi mới khổ. Ở nơi mênh mông trời nước này, vợ chồng tôi cũng khổ lắm anh ạ. Thằng bé nhà tôi. Cháu nó ngoan lắm. Lẽ ra nó đã đi học rồi. Chắc năm nay cháu sẽ được đi học. Anh khôn thiêng hãy phù hộ cho vợ chồng tôi và cháu. Tôi sẽ chôn cất mồ yên mả đẹp cho anh, sẽ thờ cúng anh ở khúc sông này. Sông ở đây trong và mát lắm. Anh ơi! Thú thật tôi cũng chỉ ao ước được như anh, nhưng còn thằng bé, còn vợ tôi, cô ấy tốt lắm…”.
Cứ thế, miên man, người đàn ông xì xụp khấn điều này điều khác. Xác chết ở ngoài kia có nghe anh nói không? Có hay không cũng chẳng sao. Đối với người chết, điều đó không quan trọng. Cũng như thằng bé, hoặc là đã không cần hiểu gì, hoặc là bắt đầu hiểu biết rất sơ khai, không rõ ràng những gì xảy đến là tốt lành hay tai họa. Hoặc như con chó cũng thế. Nó sủa cũng hiền, chỉ như vẻ đùa nghịch, như là ông bà chủ, cậu chủ bắt được một con cá lạ, một con cá to lần đầu tiên nó nhìn thấy nằm im lìm như vậy. Cũng có khi con chó nghĩ, cái ông khách này đến lạ, cứ nằm ì ra đấy chả nói năng chào hỏi gì ai. Không như những ông khách khác, hễ xuống bè là ngó nghiêng, quát tháo, tay xách những vật dài dài, đen đen thỉnh thoảng lại kêu lách cách chĩa vào nó cười cợt, hăm dọa. Chắc chắn ông khách này là ông khách hiền lành tử tế. Ông ấy có động cựa lạch cạch gì đâu. Đã nằm im suốt từ sáng tới giờ. Con chó cũng như thằng bé, cứ đi vào đi ra loanh quanh bên xác người xấu số, không biết đến những việc sắp xảy ra. Con chó không biết bàn tay thiếu ngón của người đàn ông, điều này làm sao nó biết được, có lẽ chỉ ông bố và cậu bé biết, nhưng hai người hoàn toàn im lặng.
Người đàn ông đi vào trong lều. Anh ngồi xuống rồi đứng lên đi vơ vẩn. Căn lều nhỏ nằm trên chiếc bè bập bềnh theo bước chân. Bước đến góc lều chỗ cái bàn thờ có mấy chân hương lẻ loi, người đàn ông lục sục tìm một que hương châm lửa thắp, lầm rầm như nói với chính mình: “Anh bạn ơi! Anh sống khôn chết thiêng anh hiểu cho vợ chồng tôi, cho thằng bé nhà tôi. Hôm nay chúng tôi sẽ cố xin để được chôn anh ở trên bờ. Anh là ai. Anh ở đâu đến tôi không biết nhưng tôi sẽ cố lo một lần cuối cho anh. Khó khăn gì tôi cũng lo. Nói khéo với người ta là được thôi. Vợ tôi khéo lắm anh ạ. Bởi vì cô ấy thương tôi mới khổ. Ở nơi mênh mông trời nước này, vợ chồng tôi cũng khổ lắm anh ạ. Thằng bé nhà tôi. Cháu nó ngoan lắm. Lẽ ra nó đã đi học rồi. Chắc năm nay cháu sẽ được đi học. Anh khôn thiêng hãy phù hộ cho vợ chồng tôi và cháu. Tôi sẽ chôn cất mồ yên mả đẹp cho anh, sẽ thờ cúng anh ở khúc sông này. Sông ở đây trong và mát lắm. Anh ơi! Thú thật tôi cũng chỉ ao ước được như anh, nhưng còn thằng bé, còn vợ tôi, cô ấy tốt lắm…”.
Cứ thế, miên man, người đàn ông xì xụp khấn điều này điều khác. Xác chết ở ngoài kia có nghe anh nói không? Có hay không cũng chẳng sao. Đối với người chết, điều đó không quan trọng. Cũng như thằng bé, hoặc là đã không cần hiểu gì, hoặc là bắt đầu hiểu biết rất sơ khai, không rõ ràng những gì xảy đến là tốt lành hay tai họa. Hoặc như con chó cũng thế. Nó sủa cũng hiền, chỉ như vẻ đùa nghịch, như là ông bà chủ, cậu chủ bắt được một con cá lạ, một con cá to lần đầu tiên nó nhìn thấy nằm im lìm như vậy. Cũng có khi con chó nghĩ, cái ông khách này đến lạ, cứ nằm ì ra đấy chả nói năng chào hỏi gì ai. Không như những ông khách khác, hễ xuống bè là ngó nghiêng, quát tháo, tay xách những vật dài dài, đen đen thỉnh thoảng lại kêu lách cách chĩa vào nó cười cợt, hăm dọa. Chắc chắn ông khách này là ông khách hiền lành tử tế. Ông ấy có động cựa lạch cạch gì đâu. Đã nằm im suốt từ sáng tới giờ. Con chó cũng như thằng bé, cứ đi vào đi ra loanh quanh bên xác người xấu số, không biết đến những việc sắp xảy ra. Con chó không biết bàn tay thiếu ngón của người đàn ông, điều này làm sao nó biết được, có lẽ chỉ ông bố và cậu bé biết, nhưng hai người hoàn toàn im lặng.
*
* *
* *
Người đàn bà bước xuống lều. Nhìn vẻ mặt của chị, người đàn ông biết là đã hỏng việc. Cậu bé thấy mẹ về, sán ngay lại, vẻ mừng rỡ. Con chó chạy theo cậu chủ đuôi ve vẩy, mắt long lanh, ấm áp nhìn người đàn bà. Cậu bé hỏi: “Con có được đi học không?”. Người đàn bà nhìn con. Chị im lặng một lát rồi nhìn nhanh xác chết xoa đầu thằng bé: “Năm nay con sẽ được đi học. Bố mẹ lo cho con”. Cậu bé tớn lên, chạy băng ra đầu căn lều. Con chó lao theo cậu chủ. Đến bên xác chết, cả hai dừng lại. Người chết im lặng. Cậu bé lầm bầm: “Vàng này, tao sắp đi học. Mày chịu khó ở nhà một mình. Phải ngoan đấy”. Con chó hiểu ý cậu chủ, cứ nhảy lông tông. Trời nóng. Nắng rát. Cậu bé lao xuống nước. Con vàng lao theo, cả hai bơi mãi ra giữa dòng.
Người đàn bà vào nhà đặt cái nón xuống. “Không được việc phải không?” - người đàn ông hỏi. Người đàn bà lí nhí: “Họ đòi thủ tục”. “Họ có nhận tiền không?”. “Lẽ ra là nhận, song ông ấy trả lại”. Người đàn ông nhìn vợ, hiểu rất nhanh, khẽ gắt: “Chó má. Để mai anh lên xin”. Người đàn bà thở dài: “Khó lắm. Tí nữa các ông ấy xuống kiểm tra chỗ ở. Em sợ”. Im lặng. Cả hai nghĩ đến cái xác nằm ngoài kia. Lát nữa chính quyền đến ăn nói với các ông ấy thế nào. Người đàn bà ngập ngừng: “Hay ta đưa tạm anh ấy xuống sông, người ta đi mình lại vớt lên”. Người đàn ông gắt: “Đã bảo không được. Ta cứ nói thẳng sự thật, coi như trình báo chính quyền xem các ông ấy xử lí ra sao”. “Chỉ sợ rồi các ông ấy gây khó dễ lại thiệt con. Mấy hôm nữa khai giảng rồi mình ạ”. Người đàn ông không nói gì, gườm gườm nhìn ra phía cửa sông. Nơi ấy, lố nhố mấy bóng người. Đi đầu là ông ủy ban buổi sáng.
Đoàn công tác xuống bè. Ông ủy ban sững lại, bước thụt lùi, suýt nữa ngã lộn xuống sông. Định thần, ông ta quát: “Vợ chồng nhà này gớm nhỉ? Sao lại có xác người chết ở đây? Sao không trình báo chính quyền? To gan thật”. Vừa quát thị uy, ông ta vừa băm bổ lên bè, hai dân quân lấm lét nhìn xác chết. Xác chết im lặng. Thằng bé và con chó thấy toán người lạ lặng lẽ bơi vào bè. Nó vận chiếc quần cộc nâu còn ướt sũng. Nước rỏ tong tong. Con chó gườm gườm nhìn những người lạ mặt.
Người đàn ông và người đàn bà đã chui ra khỏi lều. Rất bình tĩnh, người đàn ông nhìn xác chết, tiến về phía ông cán bộ ủy ban, nói rành rọt: “Thưa ông, cái xác này mới dạt vào đây, chúng tôi vừa vớt lên. Có chính quyền ở đây, xin các ông giải quyết”. Ông ủy ban nhìn người đàn ông khinh khi, hất hàm mắng người đàn bà: “Chị kia, sao buổi sáng không khai báo, hả?”. Người đàn bà đứng sát chồng, nói cứng: “Tôi đi rồi nhà tôi mới phát hiện vớt lên. Lúc ấy tôi chưa biết”. “Chưa biết? - ông ủy ban chì chiết - các anh các chị còn biết đến ai. Được. Lập biên bản đưa hai người lên xã. Các người to gan quá đấy. Phen này bắt đi tù cho biết. Các cậu! Còn đứng đực ra đấy à. Lập biên bản rồi trói chúng nó lại”.
Hai anh dân quân thi hành mệnh lệnh cấp trên. Trong lúc ông ủy ban hí hoáy viết, họ tiến đến người đàn ông định trói. Người đàn ông gạt hai cậu dân quân ra, phẫn nộ: “Cái lí ở đâu thế! Chúng tôi làm gì nên tội? Người này chết dạt vào đây”. “Cãi hả?”. Ông ủy ban quắc mắt. “Trói! Tội đâu tao chịu. Định giết người cướp của à. Bắt quả tang còn già mồm con đĩ. Trói chúng nó lại”. Đến đây, người đàn ông không chịu được nữa, anh hất văng hai cậu dân quân, bước nhanh về phía góc lều, rút soạt con dao chém vầu to bản sắc lạnh lưỡi thép, gầm lên: “Có giỏi chúng mày vào đây. Thằng nào đụng đến vợ chồng tao, tao chém!”. Hai anh dân quân nhìn lưỡi thép lạnh nhoáng lên, rúm ró lui về một phía. Con chó thấy ông chủ phẫn nộ uất ức, nó nhe răng nhìn ông ủy ban xù lông gáy, cắn từng tiếng dõng dạc. Người đàn bà đứng đối diện giữa hai người. Ông ủy ban mặt tái dại, giọng líu nhưng vẫn một vẻ dậm dọa: “Chúng mày, chúng mày định làm loạn à. Giỏi lắm. Dám chống lại người thi hành công vụ. Rồi chúng mày biết tay ông. Về - ông ta khoát tay - về lấy súng ra cho chúng nó biết thế nào là lễ độ”.
Bỏ mặc vợ chồng người đàn ông với xác chết, ông ủy ban rút lên bờ, hai anh dân quân sợ hãi chạy theo. Trời đã gần trưa, nắng rát, người xấu số vẫn nằm dưới nắng. Người đàn ông đứng như trời trồng. Người đàn bà nhìn chồng, lại nhìn xác chết lo lắng. Chị đến, gỡ con dao từ tay anh cài lại lên vách nứa, bảo chồng: “Tôi van mình. Mình đừng nóng quá. Nóng rồi mẹ con tôi biết tính sao?”. Người đàn ông im lặng nhìn vợ. Đầu anh như nổ tung ra. Mọi chuyện tại sao lại rối tung lên. Rồi bất thần, anh bảo vợ: “Mình cứ ở đây. Tôi vào trong làng. Không thể để họ vu oan mình được”. Người đàn ông đi, không kịp nghe người đàn bà dặn với: “Cẩn thận. Biết dân làng có ủng hộ mình không?”.
Một lúc sau lại xuất hiện đám người lố nhố tiến về phía bờ sông. Lần này dẫn đầu là vị chủ tịch. Trời nắng gắt. Đám người mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mặt mũi hầm hầm bước thẳng xuống căn lều. Thằng bé lủi vào trong. Chỉ duy con chó vàng đứng sát bên người đàn bà dõng dạc gâu lên từng tiếng vang đanh.
Ông ủy ban và vị chủ tịch xuống bè. Một loạt dân quân, có cả một y sĩ tiến theo. Nhìn lướt nhanh xác chết, vị chủ tịch lắc đầu, giọng đầy thương cảm: “Khổ thân tôi không. Sao các chị các anh tắc trách thế. Có người chết không báo cáo lại cầm dao cầm gậy chống lại chính quyền. Khổ thân anh kia. Nào, mời vợ chồng anh chị chủ ra đây, chúng ta cùng giải quyết”.
Người đàn bà tiến đến trước mặt vị chủ tịch.
“Chúng tôi không có tội. Chồng tôi không giết người. Anh này xấu số thiệt phận dạt vào đây. Có trời cao đất dày chứng kiến. Các ông không được làm gì chồng tôi!”. Vị chủ tịch khoát tay, viên y sĩ tiến tới xác chết loay hoay khám nghiệm, mặt mày khá căng thẳng. Trời nắng, xác chết đã bắt đầu bốc mùi khiến anh này nhăn mặt. Một lúc, anh y sĩ đến bên vị chủ tịch: “Báo cáo anh, không có thương tích gì. Chết là do đuối nước. Đã bốc mùi”. Vị chủ tịch kín đáo nhìn xác chết, mắt dừng lại ở đôi bàn tay ra lệnh: “Cứ biết thế đã. Về họp rồi sẽ tính. Chị kia? Chồng chị đã trốn rồi phải không?”. “Ông nói gì? Nhà tôi việc gì phải trốn?”. “Thế thì đâu? Chồng chị mắc tội chống người thi hành công vụ. Lại còn việc thằng bé nữa. Các người thật chả biết trời cao đất dày gì cả!”.
Lại một đám người nữa xuất hiện tiến xuống bè. Lần này, đi đầu là người đàn ông và một ông già râu tóc bạc phơ, đằng sau hơn chục người dân và mấy đứa trẻ. Vị chủ tịch chợt sững người khi nhận ra ông già - người thầy vỡ lòng khi xưa của mình. Ông ủy ban ra lệnh đanh gọn: “Dân quân! Còng tay nó lại!”. Loáng cái, một anh dân quân móc ra cái còng số tám. Vị chủ tịch giơ tay ra hiệu khoan đã. Rất nhanh, ông già tiến lên: “Các anh không có quyền bắt người vô lối như thế. Hãy xem đầu đuôi sự thể thế nào đã”. Vị chủ tịch cũng bước tới: “Các cậu hãy lui ra. Ở đây có bà con nhân dân mà dám làm thế à. Này anh kia. Xác chết với anh là như thế nào, hả? Phải nói đúng sự thật”.
Người đàn ông đứng yên, sát bên ông già râu tóc trắng, thuật lại sự việc. Ông già lên tiếng: “Thưa các anh chính quyền, dân vùng này, năm nào chả có xác người chết đuối trên thượng nguồn dạt xuống. Họ vớt rồi khâm liệm, xin lên đất liền chôn. Ai không máu đỏ da vàng, cùng nòi cùng giống. Anh này đâu có tội tình gì. Chỉ vì dân làng đã từ lâu lùi mãi vào trong đê, nên ngoài bối không có ai vớt những người xấu số. Các anh làm chính quyền, phải hiểu điều đó chứ. Thế mà đem cả súng ống ra đây. Các anh có tội đấy”. Ông già nói một hơi, chòm râu rung lên trong nắng gió. Những người dân im phăng phắc. Người đàn bà cứ đứng nhìn mãi ông già, từ khóe mắt chị, những giọt nước mắt lăn dài xuống.
Vị chủ tịch đợi ông già nói xong, bước lên mấy bước, nói to với mọi người: “Cụ nói rất đúng, nhưng có người chết không phải chuyện đùa, phải báo cáo cấp trên. Bây giờ, mọi người cùng giải tán. Hai cậu dân quân ở đây canh xác chết. Còn lại về triệu tập họp để báo cáo lên trên. Anh kia - vị chủ tịch chỉ tay vào người đàn ông - anh đi cùng chúng tôi về ủy ban”.
Người đàn ông nhìn vợ rồi nhìn ông già như có ý hỏi có nên đi hay không. Người đàn bà bối rối chưa biết nói gì thì ông già đã bảo: “Anh cứ đi. Các anh dân quân cũng đi về đi. Không phải canh giữ gì đâu. Mọi việc ở đây chúng tôi lo. Chính quyền các anh có họp hành gì thì cũng nhanh nhanh cho. Nào bà con, chúng ta mỗi người một tay khâm liệm cho người ta. Giữa buổi chiều nay, chính quyền chưa họp xong bà con ta cũng phải chôn cất cho tử tế. Mấy cậu thanh niên đi đào cho tôi cái huyệt ở khu mộ của làng. Mấy cậu nữa về nhà tôi lấy bộ ván của tôi đem ra đây. Còn anh - ông già chỉ vào người đàn ông - anh cứ nói đúng sự thật rồi về đây. Xong việc này, mai kia còn lo cho thằng bé đi học”.
Ông già nói nhỏ, trầm nhưng rõ ràng, khúc chiết.
Mọi người lục tục kéo đi.
Người đàn bà vào nhà đặt cái nón xuống. “Không được việc phải không?” - người đàn ông hỏi. Người đàn bà lí nhí: “Họ đòi thủ tục”. “Họ có nhận tiền không?”. “Lẽ ra là nhận, song ông ấy trả lại”. Người đàn ông nhìn vợ, hiểu rất nhanh, khẽ gắt: “Chó má. Để mai anh lên xin”. Người đàn bà thở dài: “Khó lắm. Tí nữa các ông ấy xuống kiểm tra chỗ ở. Em sợ”. Im lặng. Cả hai nghĩ đến cái xác nằm ngoài kia. Lát nữa chính quyền đến ăn nói với các ông ấy thế nào. Người đàn bà ngập ngừng: “Hay ta đưa tạm anh ấy xuống sông, người ta đi mình lại vớt lên”. Người đàn ông gắt: “Đã bảo không được. Ta cứ nói thẳng sự thật, coi như trình báo chính quyền xem các ông ấy xử lí ra sao”. “Chỉ sợ rồi các ông ấy gây khó dễ lại thiệt con. Mấy hôm nữa khai giảng rồi mình ạ”. Người đàn ông không nói gì, gườm gườm nhìn ra phía cửa sông. Nơi ấy, lố nhố mấy bóng người. Đi đầu là ông ủy ban buổi sáng.
Đoàn công tác xuống bè. Ông ủy ban sững lại, bước thụt lùi, suýt nữa ngã lộn xuống sông. Định thần, ông ta quát: “Vợ chồng nhà này gớm nhỉ? Sao lại có xác người chết ở đây? Sao không trình báo chính quyền? To gan thật”. Vừa quát thị uy, ông ta vừa băm bổ lên bè, hai dân quân lấm lét nhìn xác chết. Xác chết im lặng. Thằng bé và con chó thấy toán người lạ lặng lẽ bơi vào bè. Nó vận chiếc quần cộc nâu còn ướt sũng. Nước rỏ tong tong. Con chó gườm gườm nhìn những người lạ mặt.
Người đàn ông và người đàn bà đã chui ra khỏi lều. Rất bình tĩnh, người đàn ông nhìn xác chết, tiến về phía ông cán bộ ủy ban, nói rành rọt: “Thưa ông, cái xác này mới dạt vào đây, chúng tôi vừa vớt lên. Có chính quyền ở đây, xin các ông giải quyết”. Ông ủy ban nhìn người đàn ông khinh khi, hất hàm mắng người đàn bà: “Chị kia, sao buổi sáng không khai báo, hả?”. Người đàn bà đứng sát chồng, nói cứng: “Tôi đi rồi nhà tôi mới phát hiện vớt lên. Lúc ấy tôi chưa biết”. “Chưa biết? - ông ủy ban chì chiết - các anh các chị còn biết đến ai. Được. Lập biên bản đưa hai người lên xã. Các người to gan quá đấy. Phen này bắt đi tù cho biết. Các cậu! Còn đứng đực ra đấy à. Lập biên bản rồi trói chúng nó lại”.
Hai anh dân quân thi hành mệnh lệnh cấp trên. Trong lúc ông ủy ban hí hoáy viết, họ tiến đến người đàn ông định trói. Người đàn ông gạt hai cậu dân quân ra, phẫn nộ: “Cái lí ở đâu thế! Chúng tôi làm gì nên tội? Người này chết dạt vào đây”. “Cãi hả?”. Ông ủy ban quắc mắt. “Trói! Tội đâu tao chịu. Định giết người cướp của à. Bắt quả tang còn già mồm con đĩ. Trói chúng nó lại”. Đến đây, người đàn ông không chịu được nữa, anh hất văng hai cậu dân quân, bước nhanh về phía góc lều, rút soạt con dao chém vầu to bản sắc lạnh lưỡi thép, gầm lên: “Có giỏi chúng mày vào đây. Thằng nào đụng đến vợ chồng tao, tao chém!”. Hai anh dân quân nhìn lưỡi thép lạnh nhoáng lên, rúm ró lui về một phía. Con chó thấy ông chủ phẫn nộ uất ức, nó nhe răng nhìn ông ủy ban xù lông gáy, cắn từng tiếng dõng dạc. Người đàn bà đứng đối diện giữa hai người. Ông ủy ban mặt tái dại, giọng líu nhưng vẫn một vẻ dậm dọa: “Chúng mày, chúng mày định làm loạn à. Giỏi lắm. Dám chống lại người thi hành công vụ. Rồi chúng mày biết tay ông. Về - ông ta khoát tay - về lấy súng ra cho chúng nó biết thế nào là lễ độ”.
Bỏ mặc vợ chồng người đàn ông với xác chết, ông ủy ban rút lên bờ, hai anh dân quân sợ hãi chạy theo. Trời đã gần trưa, nắng rát, người xấu số vẫn nằm dưới nắng. Người đàn ông đứng như trời trồng. Người đàn bà nhìn chồng, lại nhìn xác chết lo lắng. Chị đến, gỡ con dao từ tay anh cài lại lên vách nứa, bảo chồng: “Tôi van mình. Mình đừng nóng quá. Nóng rồi mẹ con tôi biết tính sao?”. Người đàn ông im lặng nhìn vợ. Đầu anh như nổ tung ra. Mọi chuyện tại sao lại rối tung lên. Rồi bất thần, anh bảo vợ: “Mình cứ ở đây. Tôi vào trong làng. Không thể để họ vu oan mình được”. Người đàn ông đi, không kịp nghe người đàn bà dặn với: “Cẩn thận. Biết dân làng có ủng hộ mình không?”.
Một lúc sau lại xuất hiện đám người lố nhố tiến về phía bờ sông. Lần này dẫn đầu là vị chủ tịch. Trời nắng gắt. Đám người mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mặt mũi hầm hầm bước thẳng xuống căn lều. Thằng bé lủi vào trong. Chỉ duy con chó vàng đứng sát bên người đàn bà dõng dạc gâu lên từng tiếng vang đanh.
Ông ủy ban và vị chủ tịch xuống bè. Một loạt dân quân, có cả một y sĩ tiến theo. Nhìn lướt nhanh xác chết, vị chủ tịch lắc đầu, giọng đầy thương cảm: “Khổ thân tôi không. Sao các chị các anh tắc trách thế. Có người chết không báo cáo lại cầm dao cầm gậy chống lại chính quyền. Khổ thân anh kia. Nào, mời vợ chồng anh chị chủ ra đây, chúng ta cùng giải quyết”.
Người đàn bà tiến đến trước mặt vị chủ tịch.
“Chúng tôi không có tội. Chồng tôi không giết người. Anh này xấu số thiệt phận dạt vào đây. Có trời cao đất dày chứng kiến. Các ông không được làm gì chồng tôi!”. Vị chủ tịch khoát tay, viên y sĩ tiến tới xác chết loay hoay khám nghiệm, mặt mày khá căng thẳng. Trời nắng, xác chết đã bắt đầu bốc mùi khiến anh này nhăn mặt. Một lúc, anh y sĩ đến bên vị chủ tịch: “Báo cáo anh, không có thương tích gì. Chết là do đuối nước. Đã bốc mùi”. Vị chủ tịch kín đáo nhìn xác chết, mắt dừng lại ở đôi bàn tay ra lệnh: “Cứ biết thế đã. Về họp rồi sẽ tính. Chị kia? Chồng chị đã trốn rồi phải không?”. “Ông nói gì? Nhà tôi việc gì phải trốn?”. “Thế thì đâu? Chồng chị mắc tội chống người thi hành công vụ. Lại còn việc thằng bé nữa. Các người thật chả biết trời cao đất dày gì cả!”.
Lại một đám người nữa xuất hiện tiến xuống bè. Lần này, đi đầu là người đàn ông và một ông già râu tóc bạc phơ, đằng sau hơn chục người dân và mấy đứa trẻ. Vị chủ tịch chợt sững người khi nhận ra ông già - người thầy vỡ lòng khi xưa của mình. Ông ủy ban ra lệnh đanh gọn: “Dân quân! Còng tay nó lại!”. Loáng cái, một anh dân quân móc ra cái còng số tám. Vị chủ tịch giơ tay ra hiệu khoan đã. Rất nhanh, ông già tiến lên: “Các anh không có quyền bắt người vô lối như thế. Hãy xem đầu đuôi sự thể thế nào đã”. Vị chủ tịch cũng bước tới: “Các cậu hãy lui ra. Ở đây có bà con nhân dân mà dám làm thế à. Này anh kia. Xác chết với anh là như thế nào, hả? Phải nói đúng sự thật”.
Người đàn ông đứng yên, sát bên ông già râu tóc trắng, thuật lại sự việc. Ông già lên tiếng: “Thưa các anh chính quyền, dân vùng này, năm nào chả có xác người chết đuối trên thượng nguồn dạt xuống. Họ vớt rồi khâm liệm, xin lên đất liền chôn. Ai không máu đỏ da vàng, cùng nòi cùng giống. Anh này đâu có tội tình gì. Chỉ vì dân làng đã từ lâu lùi mãi vào trong đê, nên ngoài bối không có ai vớt những người xấu số. Các anh làm chính quyền, phải hiểu điều đó chứ. Thế mà đem cả súng ống ra đây. Các anh có tội đấy”. Ông già nói một hơi, chòm râu rung lên trong nắng gió. Những người dân im phăng phắc. Người đàn bà cứ đứng nhìn mãi ông già, từ khóe mắt chị, những giọt nước mắt lăn dài xuống.
Vị chủ tịch đợi ông già nói xong, bước lên mấy bước, nói to với mọi người: “Cụ nói rất đúng, nhưng có người chết không phải chuyện đùa, phải báo cáo cấp trên. Bây giờ, mọi người cùng giải tán. Hai cậu dân quân ở đây canh xác chết. Còn lại về triệu tập họp để báo cáo lên trên. Anh kia - vị chủ tịch chỉ tay vào người đàn ông - anh đi cùng chúng tôi về ủy ban”.
Người đàn ông nhìn vợ rồi nhìn ông già như có ý hỏi có nên đi hay không. Người đàn bà bối rối chưa biết nói gì thì ông già đã bảo: “Anh cứ đi. Các anh dân quân cũng đi về đi. Không phải canh giữ gì đâu. Mọi việc ở đây chúng tôi lo. Chính quyền các anh có họp hành gì thì cũng nhanh nhanh cho. Nào bà con, chúng ta mỗi người một tay khâm liệm cho người ta. Giữa buổi chiều nay, chính quyền chưa họp xong bà con ta cũng phải chôn cất cho tử tế. Mấy cậu thanh niên đi đào cho tôi cái huyệt ở khu mộ của làng. Mấy cậu nữa về nhà tôi lấy bộ ván của tôi đem ra đây. Còn anh - ông già chỉ vào người đàn ông - anh cứ nói đúng sự thật rồi về đây. Xong việc này, mai kia còn lo cho thằng bé đi học”.
Ông già nói nhỏ, trầm nhưng rõ ràng, khúc chiết.
Mọi người lục tục kéo đi.
*
* *
* *
Trời chuyển sang chiều. Những đám mây quây quần dắt nhau bay làm dịu những tia nắng. Dòng sông mở ra mênh mang. Nắng xuyên mây rọi xuống tóc, xuống râu ông già. Ông ngồi bên người xấu số, như một người cha bên đứa con mình. Ngay cạnh đấy, người đàn bà bó gối ngồi nhìn dòng sông đang chảy. Thỉnh thoảng, chị nhìn thằng bé con ngồi với con chó đang im lặng
P.V.K
0 comments: